FAO: Chìa khóa để ngăn chặn khủng hoảng lương thực toàn cầu
Theo phóng viên TTXVN tại Rome, ngày 2/12, Tổ chức Lương Nông Liên hợp quốc (FAO) đã tổ chức lễ công bố chính thức ấn phẩm “Tương lai của nông nghiệp và lương thực – Các Động lực và Tác nhân kích hoạt chuyển đổi” (FOFA-DTT), tập trung vào những hành động cần thiết và cấp bách để chuyển đổi các hệ thống nông lương theo hướng bền vững.
Lễ công bố đã được tổ chức với sự tham dự trực tiếp và trực tuyến của hàng nghìn người trên khắp thế giới, trong đó có phát biểu chính của các quan chức cao cấp của FAO gồm Tổng Giám đốc FAO Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu), nhà kinh tế trưởng của FAO Máximo Torero, Phó Giám đốc phụ trách Bộ phận kinh tế học nông nghiệp thực phẩm (ESA) Marco V. Sánchez, cùng các diễn giả khách mời, trong đó có Đại sứ Việt Nam tại Italy, kiêm nhiệm Đại diện thường trực của Việt Nam tại FAO Dương Hải Hưng.
Toàn cảnh sự kiên công bô báo cáo của FAO. Ảnh: Trường Dụy/TTXVN
Phát biểu tại sự kiện công bố FOFA-DTT, Tổng Giám đốc FAO Khuất Đông Ngọc nhấn mạnh rằng ấn bản “Tương lai của nông nghiệp và lương thực” thứ ba này tập trung vào các động lực và yếu tố kích hoạt quá trình chuyển đổi các hệ thống nông lương mà FAO đang hỗ trợ. Nhiều mục tiêu phát triển bền vững (SDG) hiện đang chệch hướng và sẽ chỉ đạt được nếu các hệ thống nông lương được chuyển đổi phù hợp để chống chọi với những thách thức toàn cầu đang diễn ra, làm suy yếu an ninh lương thực và dinh dưỡng do sự bất bình đẳng về cấu trúc và bất bình đẳng khu vực ngày càng tăng. Tổng
Giám đốc FAO nêu rõ: “Dự báo chiến lược này rất hữu ích đối với tất cả chúng ta, đặc biệt là các chính phủ, với việc phân tích các xu hướng ngắn hạn và dài hạn, lường trước các viễn cảnh tương lai, nhờ đó có hành động hợp lý để tránh các viễn cảnh xấu nhất cũng như định hướng hành động để đạt được “4 tốt hơn: sản xuất tốt hơn, dinh dưỡng tốt hơn, môi trường tốt hơn và cuộc sống tốt đẹp hơn, không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Khả năng nuôi sống dân số ngày càng tăng của thế giới đang bị đe dọa và nếu không có sự thay đổi lớn hơn về kinh tế xã hội và môi trường, thế giới sẽ không thể có các hệ thống nông lương bền vững. FOFA-DTT phân tích các động lực hiện tại, mới nổi và xu hướng tương lai của các hệ thống nông sản thực phẩm, xem xét mối quan hệ của chúng với các hệ thống môi trường và kinh tế xã hội rộng lớn hơn, đồng thời giải quyết câu hỏi cơ bản về cách thức thúc đẩy các hệ thống nông lương đi theo lộ trình bền vững khi thế giới đạt được các SDG chủ chốt vào năm 2030 và cách cải thiện hơn nữa tình hình kinh tế xã hội và môi trường toàn cầu sau thời điểm đó.
Phó Giám đốc Bộ phận kinh tế nông nghiệp thực phẩm (ESA) của FAO Sánchez khẳng định rằng các quá trình biến đổi để đạt được tương lai bền vững đòi hỏi các hệ thống kinh tế xã hội phát triển theo cách đảm bảo cơ hội kiếm thu nhập cho tất cả mọi người, mức lương trên toàn thế giới tương thích với chi phí cho chế độ ăn uống lành mạnh, nghĩa là thực phẩm bổ dưỡng, an toàn, tốt cho sức khỏe, và thức ăn được sản xuất và cung cấp theo cách không phá hủy các điều kiện sản xuất thức ăn trong tương lai.
Báo cáo nêu ra 4 viễn cảnh phát triển của các hệ thống nông – thực phẩm, gồm 2 viễn cảnh khá bi quan, 1 viễn cảnh có thể tạo ra một số lợi ích tạm thời và 1 viễn cảnh là thực sự bền vững. Trong viễn cảnh “mọi thứ như cũ”, thế giới sẽ tiếp tục bị động phản ứng với các sự kiện và khủng hoảng, trong khi với viễn cảnh “tương lai được điều chỉnh”, một số động thái hướng tới các hệ thống nông lương bền vững diễn ra nhưng với tốc độ chậm và không chắc chắn. “Cuộc đua xuống đáy” miêu tả một thế giới hỗn loạn trong kịch bản xấu nhất. Báo cáo cũng chỉ ra viễn cảnh “Đánh đổi để lấy sự bền vững”, trong đó đổi tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngắn hạn để đạt được tính bao trùm, sức chống đỡ và bền vững của các hệ thống nông lương, kinh tế xã hội và môi trường.
Phát biểu tại hội thảo, Đại sứ Dương Hải Hưng nhấn mạnh rằng để tránh viễn cảnh “cuộc đua xuống đáy” đầy u ám, thế giới phải cùng hành động ngay bây giờ và hướng tới việc hiện thực hóa một hệ thống nông lương bền vững và có khả năng chống đỡ.
Video đang HOT
Theo Đại sứ, báo cáo của FAO chỉ ra một nguyên nhân quan trọng đẩy nhanh viễn cảnh bi quan này là khả năng đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ khác nhau giữa các nhóm nước thu nhập cao và thu nhập thấp khiến khoảng cách phát triển giữa hai nhóm này càng bị kéo dãn.
Đại sứ cho rằng là một tổ chức kỹ thuật, FAO có vai trò quan trọng để hạn chế hiện tượng này bằng cách đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu và hỗ trợ các nước đang phát triển về các chính sách, cách tiếp cận, thực tiễn và công cụ đổi mới sáng tạo; khuyến khích đầu tư, tồng hợp và chia sẻ hàng hóa kỹ thuật số công cộng và các giải pháp dựa trên tự nhiên; hỗ trợ tài chính, công nghệ và xây dựng năng lực cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực đổi mới khoa học công nghệ; thúc đẩy đối tác tri thức giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các chủ thể khác, như hợp tác Nam-Nam và Ba bên về chuyển giao công nghệ, phát triển nghiên cứu để giải quyết vấn đề an ninh lương thực và dinh dưỡng ở cấp địa phương và khu vực. Việt Nam đã phát triển khá nhiều đổi mới kỹ thuật tiết kiệm chi phí và rất sẵn lòng chia sẻ, chẳng hạn như mô hình an ninh lương thực địa phương ‘Khu vườn của tôi’ xoay quanh một hệ thống các giá trị, nghĩa vụ, hành động và lợi ích chung. Việt Nam cũng mong muốn trở thành một trung tâm đổi mới thực phẩm ở Đông Nam Á và sẽ tiếp tục tích cực tham gia các sáng kiến đổi mới, bao trùm, kỹ thuật số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Các xu hướng như gia tăng dân số và đô thị hóa, bất ổn kinh tế vĩ mô, nghèo đói và bất bình đẳng, căng thẳng và xung đột địa chính trị, cạnh tranh gay gắt hơn đối với tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu đang tàn phá các hệ thống kinh tế xã hội và hủy hoại hệ thống môi trường. Báo cáo của FAO đã lựa chọn và khuyên cáo các nước thành viên vê 4 nhân tô kích hoạt chuyên đôi các hê thông lương thực, thực phâm hướng tới bên vững hơn, bao gôm tăng cường quản lý nhà nước; nâng cao thu nhâp cho người dân, giảm sự bât bình đẳng giữa các nhóm dê tôn thương; nâng cao nhân thức của người tiêu dùng; và tiêp tục chia sẻ đôi mới công nghê toàn câu.
Đại sứ Viêt Nam tại Italy Dương Hải Hưng phát biêu tại sự kiên công bô ấn phẩm của FAO. Ảnh: Trường Dụy/TTXVN
Đại sứ Dương Hải Hưng tâm đắc chia sẻ việc Việt Nam đánh giá cao và trực tiếp trải nghiệm tầm quan trọng của nhân tố tăng cường quản lý nhà nước. Chính với chính sách Đổi Mới năm 1986, Việt Nam đã có thể đạt được những thành tựu to lớn trong việc chống khủng hoảng kinh tế vĩ mô và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững; chuyển mình từ một nước đói kém trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Việt Nam trong thập kỷ qua cũng là quốc gia có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Nông nghiệp bền vững và an ninh lương thực là một trong những trụ cột của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2030.
FOFA-DTT nêu bật các lựa chọn chiến lược có thể giúp đạt được an ninh lương thực, dinh dưỡng, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, phục hồi hệ sinh thái và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Báo cáo kêu gọi những người ra quyết định nghĩ xa hơn những nhu cầu ngắn hạn, cảnh báo rằng việc thiếu tầm nhìn, cách tiếp cận từng phần và “những giải pháp chớp nhoáng” sẽ khiến mọi người phải trả giá đắt. Một tư duy mới, ưu tiên các mục tiêu dài hạn, tính bền vững và khả năng phục hồi là rất cần thiết.
Trao đổi với phóng viên TTXVN, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hương, chuyên gia kinh tế thuộc Bộ phận nghiên cứu chính sách của FAO, một trong 3 tác giả chính của FOFA-DTT nói: “Đây là môt báo cáo chủ chôt, đê xuât các chiên lược chuyên đôi hê thông nông lương toàn câu dài hạn, tạo ra nên tảng cho các quôc gia thành viên cũng như các khu vực và các tiêu ngành tạo thành chính sách khung và chương trình hành đông nghị sự toàn câu. Báo cáo đã phân tích 18 nhân tô câu thành nên hê thông nông lương toàn câu, trong đó có những nhân tố đang nổi lên như sự phụ thuôc lẫn nhau tăng lên giữa các quôc gia, vai trò của Big Data trong tương lai, xu hướng tăng giá của lương thực, thực phâm hay sự tâp trung quá mức của thị trường và sự tham gia của các tô chức xuyên quôc gia trong hê thông phân phôi lương thực và những tác đông của chúng. Nêu chúng ta cương quyêt theo đuôi những mục tiêu phát triên bên vững và tăng cường sức chông đỡ thì chúng ta sẽ hướng đên môt tương lai tươi sáng hơn. Nêu muôn đạt được điêu đó, thì cách tiêp cân là chúng ta phải châp nhân sự đánh đôi. Ví dụ như phải chọn viêc tăng sản lượng hay giảm phát thải, chọn mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực hay mục tiêu đảm bảo vê sinh an toàn thực phâm, bởi vì không có môt giải pháp nào có thê hoàn hảo, thỏa mãn tât cả các mục tiêu”.
Đến năm 2050, dự kiến thế giới sẽ có 10 tỷ dân và đây sẽ là một thách thức chưa từng có nếu không có những nỗ lực đáng kể để đảo ngược xu hướng hiện tại. Hiện có khoảng 770 triệu người, tức gần 10% dân số thế giới bị đói và hơn 3 tỷ người không có khả năng để có một chế độ ăn uống lành mạnh. Tuy nhiên, nếu các chính phủ, người tiêu dùng, doanh nghiệp, giới học giả và cộng đồng quốc tế hành động ngay bây giờ, thì việc chuyển đổi toàn diện các hệ thống nông lương là hoàn toàn khả thi và có thể mang lại thay đổi bền vững lâu dài.
Ngành công thương tạo động lực tăng trưởng mới từ khoa học công nghệ
Bộ Công Thương cho biết, nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu được Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tới đây Bộ Công Thương sẽ tập trung vào các định hướng nhiệm vụ cụ thể để tạo động lực tăng trưởng mới dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Bokwang Vina (Khu công nghiệp Điềm Thụy, tỉnh Thái Nguyên). Ảnh minh họa: Hoàng Hùng/TTXVN
Theo đó, để khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có đóng góp ngày càng quan trọng vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nền sản xuất tự chủ và có tính cạnh tranh cao, giai đoạn 2021-2030 ngành công thương ưu tiên đánh giá hiệu quả, hiệu lực thực thi chính sách phát triển công nghiệp, thương mại, hội nhập hiện có.
Mặt khác, ngành đề xuất các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, định hướng, giải pháp phát triển ngành, lĩnh vực, phân bố không gian công nghiệp, thương mại, kết cấu hạ tầng thương mại, logistics theo yêu cầu của tái cơ cấu ngành công nghiệp, thương mại và tác động từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn (trong nước và quốc tế) đề xuất các phương án, kịch bản phát triển của ngành, lĩnh vực trong giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030.
Ngoài ra, ngành đưa ra các phương án và giải pháp thực hiện việc tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực sản xuất; cấu trúc lại không gian phát triển của các ngành, lĩnh vực phù hợp với định hướng phát triển chung; xây dựng phương án, chính sách đặc thù phục vụ phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên tại các vùng công nghiệp lõi được hình thành từ mỗi vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế ven biển.
Các chuyên gia ngành công thương cho biết thêm, ngành sẽ tiến hành xây dựng và hoàn thiện thể chế về phát triển vùng, phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp và cụm liên kết ngành công nghiệp dựa trên nền tảng là các khu (khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất...); cung cấp luận cứ đề xuất cơ chế, chính sách thí điểm về cụm liên kết ngành công nghiệp với một số sản phẩm trong các ngành công nghiệp ưu tiên theo lợi thế cạnh tranh, chuyên môn hóa và chuỗi giá trị.
Ngành công thương xây dựng phương án tái cấu trúc các khu công nghiệp và khu kinh tế; hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển, quy hoạch phát triển công nghiệp; hoàn thiện chính sách phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp, các trung gian cung cấp dịch vụ tư vấn công nghiệp như đầu tư, tài chính, thị trường, xúc tiến thương mại...
Đặc biệt, ngành nghiên cứu, tư vấn giải quyết các vấn đề về cạnh tranh trong thương mại, chống các hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh ở thị trường trong và ngoài nước; bổ sung các quy định về chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, giá, phí, lệ phí, nhượng quyền; đề xuất cơ chế chính sách nhằm tiếp cận thị trường vốn tín dụng nước ngoài, kêu gọi được các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp, năng lượng.
Cùng đó, tạo chính sách tạo thuận lợi hóa về tiếp cận và mở rộng thị trường cho phát triển ngành công nghiệp; xây dựng kịch bản đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; các chính sách khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết; tư vấn sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực thi cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA); đồng bộ hóa khung khổ pháp luật trên cơ sở bổ sung, sửa đổi các quy định hiện hành để nắm bắt các cơ hội do hội nhập mang lại.
Nhằm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên, ngành công thương cũng hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ sản xuất và công nghệ quản trị hiện đại gắn với quá trình chuyển đổi số và phát triển sản xuất thông minh, góp phần nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và sản phẩm công nghiệp chủ lực.
Mặt khác, ngành tập trung xây dựng và triển khai các chương trình, đề án khoa học công nghệ giai đoạn 2021 - 2030 như chương trình nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030; chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao...; trong đó, ưu tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa.
Đặc biệt, ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong công nghiệp chế biến; thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, thiết bị sản xuất; đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai Đề án Phát triển công nghiệp sinh học ngành công thương đến năm 2030.
Hơn nữa, xác định các công nghệ chiến lược và lĩnh vực ưu tiên tập trung nghiên cứu, phát triển ứng dụng công nghệ; xây dựng và triển khai Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ 4.0 và phát triển sản xuất thông minh giai đoạn 2021 - 2030, tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên, có lợi thế cạnh tranh và mức độ sẵn sàng chuyển đổi số cao.
Cùng đó, xây dựng và triển khai Chương trình Phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao phục vụ phát triển các lĩnh vực ưu tiên trong thực thi các FTAs của ngành công thương giai đoạn 2021 - 2030; thiết lập bản đồ công nghệ và lộ trình đổi mới công nghệ, đặc biệt gắn với xu hướng phát triển công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho các ngành, lĩnh vực, sản phẩm ưu tiên trong giai đoạn 2021 - 2025.
Đáng lưu ý, toàn ngành còn hướng tới việc xây dựng TCVN, QCVN cho các công nghệ được đầu tư, sử dụng trong nước, công nghệ nhập khẩu theo hướng công nghệ sạch; xây dựng lộ trình và triển khai việc loại bỏ các công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và gây ô nhiễm
Theo Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Công Thương được giao chủ trì 9 chương trình/đề án khoa học và công nghệ các cấp. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học công nghệ đã đạt được những giải thưởng cao và ứng dụng nhanh chóng vào thực tiễn của ngành, lĩnh vực, mang tới tác động tích cực, tạo cơ hội phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo lập vị thế về khoa học của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Thời gian qua, những chuyển biến tích cực của các doanh nghiệp trong thực hiện hoạt động khoa học công nghệ, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua việc đầu tư nhiều hơn cho ứng dụng, đổi mới công nghệ là rất rõ nét.
Đặc biệt, tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị trong giai đoạn vừa qua đã có sự cải thiện đáng kể với hơn 80% doanh nghiệp lớn và trên 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thực hiện đổi mới sản phẩm hoặc quy trình.
Cũng theo Bộ Công Thương, nhờ vậy những năm qua sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng tích cực, cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế; nền sản xuất công nghiệp đã đạt năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức khá cao; một số ngành có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới, như dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...
Bên cạnh đó, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao liên tục tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; xuất nhập khẩu tăng trưởng kỷ lục, kim ngạch thương mại 2 chiều đạt trên 500 tỷ USD; trong đó, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 22,9% năm 2016 lên 50% năm 2020.
VCCI: Phân định rõ trách nhiệm huy động vốn hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở Phản hồi đề nghị của Bộ Xây dựng về việc góp ý hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo khu vực nông thôn giai đoạn 2021 - 2025, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo khu vực...