Đường sắt Việt Nam quá lạc hậu, muốn thay đổi phải làm đường sắt cao tốc
Đường sắt Việt Nam qua hơn 100 năm sử dụng, đến nay đã quá lạc hậu so với thế giới. Việc đầu tư các tuyến đường sắt tốc độ cao được đặt ra nhiều năm, nhưng đến nay vẫn chưa “chốt” được phương án cụ thể.
Quá lạc hậu, thiếu vốn duy tu, bảo dưỡng
Ông Đặng Sỹ Mạnh, Tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam cho biết, cùng với các loại hình vận tải trong nước (đường bộ, hàng không, đường thuỷ, đường biển) đường sắt được ví như ” 5 ngón tay trên 1 bàn tay”. Nhưng trong suốt thời gian dài vừa qua, đường sắt luôn lép vế, không cạnh tranh được với đường bộ, đường hàng không.
Thị phần vận tải khách đường sắt hiện nay chỉ chiếm chưa đến 1% so với các loại hình vận tải khác. Điều này trái ngược với Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan khi thị phần vận tải đường sắt chiếm tỷ lệ lớn, góp phần kéo giảm chi phí logistic trong vận chuyển lưu thông hàng hoá.
Ông Mạnh chia sẻ, muốn nhìn phương thức giao thông phát triển hay không thì phải nhìn kết cấu hạ tầng phương thức đó. Với đường sắt Việt Nam, từ đường ray, đầu máy, toa xe… được đầu tư xây dựng từ thời Pháp, nhưng qua nhiều năm sử dụng, khai thác hiện đã quá lạc lậu.
Trong khi các nước hiện nay đa số sử dụng khổ đường 1.435mm thì đường sắt Việt Nam chủ yếu vẫn duy trì khổ đường 1.000mm. Thêm nữa, hệ thống đường có nhiều cầu cống xung yếu, nhiều đường cong bán kính nhỏ qua đèo núi, nhiều công trình hết tuổi thọ… nên tốc độ chạy hạn chế. Đoàn tàu chạy nhanh nhất tuyến Bắc – Nam hiện nay cũng phải mất 32 tiếng nên khó cạnh tranh với đường bộ và hàng không.
Về đầu máy toa xe, cả 300 đầu máy của đường sắt Việt Nam được nhập về từ: Tiệp Khắc, Đức, Trung Quốc, Bỉ… đa số có tuổi đời sử dụng 30-40 năm; 1.030 toa xe khách, 4.000 toa xe hàng đều phải sử dụng đầu kéo mới khai thác được. So với đầu máy toa xe cũ của Nhật cùng tuổi đời sử dụng, cùng công nghệ chạy bằng diezen thì đầu máy toa xe của Việt Nam lạc hậu hơn.
Đường sắt Việt Nam đã được sử dụng hơn 100 năm, đến nay đã quá lạc hậu
Trong khi toa xe cũ của Nhật Bản có thể tự chạy, thì toa xe của Việt Nam vẫn phải sử dụng đầu máy kéo nên hiệu quả khai thác thấp hơn.
Về tính kết nối của hạ tầng đường sắt, hiện nay đường sắt Việt Nam có 3.143km với 15 tuyến (trong đó có 7 tuyến chính). So với khi Pháp xây dựng thì không đồng bộ và hoàn thiện bằng. Khi Pháp xây dựng đường sắt Việt Nam được kết nối vào các khu hầm mỏ, khu công nghiệp, nhà máy, bến cảng. Tuy nhiên qua quá trình khai thác, đến nay đã bị cắt cụt đi rất nhiều kết nối. Trong khi, những kết nối bị cắt đều rất cần thiết để phục vụ khai thác hàng và đưa khách lên tàu.
Thống kê của Tổng công ty Đường sắt cho thấy, so với trước đây đường sắt đã cắt cụt đi 43 kết nối với 184km đường. Hiện nay chỉ còn 50 kết nối, trong đó có 28 kết nối đang hoạt động với 69km, còn lại 22 kết nối 115km không hoạt động.
“Tàu bốc hàng từ tàu biển vào đất liền nhưng chúng ta đã tự cắt cụt đi khiến cho vận tải hàng hoá bằng đường sắt bị hạn chế, không thể cạnh tranh được với đường bộ”, đại diện Tổng công ty Đường sắt cho hay.
Trong bối cảnh đường sắt lạc hậu, xuống cấp nhưng nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng đường sắt cũng hạn chế. Trong 10 năm qua vốn đầu tư cho đường sắt chỉ chiếm tỉ lệ 2,17% so với kinh phí phát triển giao thông vận tải. Hàng năm ngân sách để duy tu, bảo trì cho đường sắt chỉ đáp ứng 40% so với định mức tính đúng, tính đủ. Do thiếu vốn nên có những hạng mục cần thay thế vẫn phải sử dụng.
Đơn cử như năm 2021 ngân sách bố trí duy tu, cải tạo là 2.822 tỷ đồng nhưng để đáp ứng được yêu cầu thì cần tới 7.000 tỷ. Trong bối cảnh thiếu vốn ngân sách thì việc kêu gọi xã hội hoá nâng cấp cải tạo hạ tầng đường sắt lại không thực hiện được. Một số tuyến có sức hấp dẫn với tư nhân như: Hạ Long – Cái Lân và một số khu bãi tập kết hàng hoá. Dù được quan tâm, nhưng do các quy định chưa rõ ràng, các bộ ngành cho ý kiến nói rõ chưa có tiền lệ nên không thể kêu gọi đầu tư.
Bao giờ có đường sắt tốc độ cao
Hôm 19/10 vừa qua, Chính phủ phê duyệt chủ trương quy hoạch thêm 9 tuyến đường sắt mới đến năm 2030, trong đó có tuyến tốc độ cao Bắc Nam.
Video đang HOT
Theo quyết định Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngành đường sắt sẽ cải tạo nâng cấp các tuyến hiện có, nối thông tuyến liên vận quốc tế; chuẩn bị đầu tư và thu xếp nguồn lực để khởi công một số tuyến mới, trong đó ưu tiên đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Bên cạnh 7 tuyến hiện có dài khoảng 2.440km thì mạng lưới đường sắt quốc gia đến năm 2030 có thêm 9 tuyến mới (dài 2.362km).
Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tập trung nguồn lực làm đường sắt tốc độ cao
Lớn nhất là tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) đến ga Thủ Thiêm (TP.HCM) dài 1.545km. Bộ GTVT đề xuất đầu tư hai đoạn Hà Nội – Vinh và TP.HCM – Nha Trang trước năm 2030.
Chuyên gia kỹ thuật hạ tầng của JICA Phan Lê Bình cho biết, việc hiện đại hóa đường sắt đã được xem xét rất kỹ trong 10 năm qua. Đây là thời điểm đi đến quyết sách xem sẽ đầu tư như thế nào cho phù hợp.
Theo ông Bình, việc đầu tư đường sắt tốc độ cao cần nguồn vốn lớn, qua đề xuất và đánh giá của các chuyên gia đầu ngành thì việc đầu tư từng giai đoạn như Hà Nội – Vinh, TP.HCM – Nha Trang trước được cho là khả thi.
Một chuyên gia trong lĩnh vực đường sắt chia sẻ, chủ trương đầu tư xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam được trình Quốc hội từ năm 2009, đến nay sau hơn 10 năm dự án đang tiếp tục được nghiên cứu để sớm trình Quốc hội thông qua.
Tuy nhiên, hiện nay, phương án làm đường sắt cao tốc đang đứng trước 2 luồng ý kiến. Có ý kiến cho rằng, nên nâng cấp đường sắt cũ lên cao tốc với tốc độ tàu chạy từ 160 – 200km/h kết hợp giữa chở khách và chở hàng, nhưng cũng có ý kiến cho rằng cần thiết làm đường sắt mới chạy với tốc độ 300 – 350km/h chỉ chở khách.
Ông Đặng Sỹ Mạnh cho rằng, không nên nâng cấp đường sắt hiện hữu lên cao tốc. Lý do nếu nâng cấp lên thành cao tốc xem như làm mới toàn bộ. Do khổ đường sắt cũ là 1.000mm nếu chuyển thành khổ 1.435mm không đơn giản chỉ dịch thanh ray ra mà phải thay đồng bộ từ mặt bằng, phạm vi bảo vệ, hành lang an toàn, nền đường, tà vẹt cũng phải kéo dài ra. Đó là chưa kể hầm đường cũng phải mở rộng, thay đổi hết.
Đặc biệt những đoạn có đường cong, trong khi đường tốc độ cao bán kính khổ 1.435mm bán kính lớn hơn khổ 1.000mm thì phải cải tạo lại hết cho phù hợp.
Các nước làm đường sắt cao tốc người ta làm tuyến mới, còn đường sắt hiện hữu được nâng cấp, cải tạo để phục vụ cho vận tải phù hợp với năng lực của nó như chở khách địa phương, hoặc chở hàng hoá.
“Kể cả các nước phát triển trên thế giới người ta vẫn giữ lại đường sắt cũ để sử dụng. Nhật Bản hiện nay có hệ thống Shinkansen tốc độ cao, nhưng vẫn duy trì đường sắt cũ khổ 1.067mm để dùng kết hợp chở khách và chở hàng”, ông Mạnh nêu thực tế.
Chuyên gia giao thông: 37 toa tàu cũ của Nhật vẫn tốt hơn tàu ta đang có
Các chuyên gia giao thông ủng hộ việc ngành đường sắt muốn nhập 37 toa tàu cũ của Nhật vì cho rằng nó còn tốt hơn tàu Việt Nam đang sử dụng và tiết kiệm chi phí.
Những ngày qua, thông tin Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam xin Thủ tướng cho phép nhập khẩu 37 toa xe tự hành DMU đã qua sử dụng của Nhật Bản nhận được nhiều ý kiến trái chiều của dư luận. Trong đó không ít ý kiến chỉ trích, phản đối vì cho rằng như vậy là thụt lùi, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp.
Tuy nhiên, trả lời PV VTC News, hầu hết các chuyên gia giao thông đều ủng hộ đề nghị trên của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam. Họ cho rằng, mặc dù đó là những toa tàu cũ 40 năm nhưng so với những toa tàu đang có của ngành đường sắt Việt Nam thì chất lượng còn tốt hơn nhiều.
Tàu cũ của Nhật tốt hơn tàu hiện có của Việt Nam
Theo chuyên gia giao thông Phan Lê Bình, khi nghe thông tin Nhật Bản muốn tặng cho Việt Nam các toa tàu đã sản xuất từ 30-40 năm trước, nhiều người không ủng hộ nhưng thực chất phản ứng đó là hiểu lầm.
Toa xe loại Kiha 40 và Kiha 48 được Nhật Bản sản xuất giai đoạn 1979-1982 do Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East) sử dụng, hiện đã ngừng khai thác, dự kiến bàn giao cho Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam.
Theo TS Phan Lê Bình, các toa tàu của Nhật tuy sản xuất được 40 năm nhưng không phải sản xuất xong rồi cứ chạy mãi như vậy.
"Khác với các đồ điện máy thông thường (hàng bãi) của Nhật mà người dân vẫn hay mua về sử dụng, tàu của Nhật khi chạy họ phải kiểm tra, kiểm định định kỳ. Quy trình kiểm định còn ngặt nghèo hơn kiểm định ô tô rất nhiều, thường 1-2 năm hoặc tùy theo số km lăn bánh mà họ có những kiểm định, đánh giá rất chặt. Căn cứ vào tình trạng, họ đưa vào xưởng để kiểm tra, thay thế những phụ tùng hao mòn hoặc thậm chí cả động cơ, sơn lại cho mới", ông Bình phân tích.
Tuy các toà tàu của Nhật đã cũ nhưng còn tốt hơn nhiều so với những toa tàu hiện có của đường sắt Việt Nam.
TS Phan Lê Bình
Tuy tuổi đời của các toa xe cao nhưng giá trị sử dụng vẫn còn rất tốt vì có thể chỉ mỗi khung là cũ còn phụ tùng đã được thay thế cũng như sơn sửa rất nhiều trong quá trình sử dụng theo đúng quy trình của Nhật.
Đặc biệt theo ông Bình, công nghệ của các toa tàu cũ mà Nhật đang sử dụng vẫn rất hiện đại. Các toa tàu này đều có mô tơ chạy gắn riêng, vì thế mỗi toa vừa có thể chở khách, vừa có sức kéo để gắn vào các toa tàu khác.
Khác với công nghệ đầu máy gắn ở đầu để kéo theo hàng chục toa phía sau mà Việt Nam đang sử dụng, công nghệ ở các toa tàu của Nhật sẽ rất thích hợp khi chạy ở cự ly ngắn.
"Tuy các toà tàu của Nhật đã cũ nhưng nó còn tốt hơn nhiều so với những toa tàu hiện có của đường sắt Việt Nam. Việc nhập này có tác dụng tốt, nhập về còn dùng được 10-20 năm nữa trong khi chờ đợi những đầu tư mới của Nhà nước", ông Bình nói.
Đồng quan điểm, TS Bùi Danh Liên - Phó Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội cho hay, trong điều kiện kinh tế nước ta còn hạn hẹp, việc nhập toa tàu cũ của Nhật về là hợp lý, tiết kiệm và nên khuyến khích.
"Tàu của Việt Nam đang khai thác hiện nay là đầu máy động lực tập trung, một đầu máy kéo theo cả đoàn hơn 10 toa tàu. Trường hợp ít khách nhưng vẫn phải đầu máy lớn 18.000 CV kéo, sẽ rất tốn kém.
Trong khi đó, các toa xe tự hành DMU có thể vận hành độc lập, 1-2 toa cũng có thể thể tự chạy mà không cần đầu máy kéo, hoặc dễ dàng ghép nối thành đoàn xe với quy mô tùy theo nhu cầu sử dụng nên tiết kiệm nhân lực, nhiên liệu, tiện cho những đoạn đường ngắn như Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Vinh...", ông Liên nói.
Ông Bùi Danh Liên - Phó Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội.
Cũng theo ông Liên, theo quy định tại Nghị định 65, chỉ được nhập khẩu toa xe khách đã qua sử dụng không quá 10 năm, niên hạn toa xe khách không quá 40 năm nên Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã báo cáo Thủ tướng.
Chuyên gia giao thông đánh giá 37 toa tàu đã qua sử dụng khi về Việt Nam sẽ không kéo lùi ngành đường sắt mà ngược lại còn đưa ngành đường sắt tiến lên trong điều kiện chúng ta hạn hẹp về kinh tế.
Với tài sản này không phải đầu tư mới, không phải mua mà coi như "quà tặng", tài sản "0 đồng". Tuy nhiên, đơn vị bên Nhật Bản cũng phải giúp đỡ Việt Nam trong việc bảo trì, đào tạo nhân lực, kỹ thuật... Thêm vào đó, trước khi cho tàu chạy, ngành đường sắt phải đảm bảo các điều kiện an toàn.
Theo Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, tổng chi phí cho các toa xe này sẽ mất khoảng 140 tỷ đồng, trong đó 40 tỷ đồng là chi phí vận chuyển, 80 tỷ đồng để thực hiện hoán cải toa xe, còn lại là các chi phí khác như: đăng kiểm, tư vấn, dự phòng...
Với số tiền đó để vận chuyển 37 toa tàu của Nhật về Việt Nam, không mất chi phí mua, nhưng có thể sử dụng trong thời gian dài, theo đánh giá của ông Liên cũng đáng kể. Bởi, nếu mua những toa tàu mới trong lúc chúng ta đang xây dựng đường cao tốc, sau đó sử dụng vài chục năm lại bỏ sẽ sẽ rất lãng phí và tốn kém.
"Chưa kể tới hiện nay trên thế giới đã không sản xuất toa tàu cho đường sắt khổ 1m như đường sắt ở nước ta. Việc chúng ta tận dụng toa tàu cũ của Nhật Bản, đồng thời song song làm đường cao tốc là phương pháp tiết kiệm, làm tới đâu chắc tới đó. Tôi rất ủng hộ chủ trương trên của ngành đường sắt" , ông Liên nói.
Ông Liên dẫn ra Dự thảo Quy hoạch đường bộ thời kỳ tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đơn vị tư vấn đề xuất tập trung cho đầu tư hoàn thiện mạng lưới cao tốc. Ngoài 2 tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông và phía Tây, phía Bắc sẽ đầu tư thêm 12 tuyến, miền Trung - Tây Nguyên thêm thêm 7 tuyến, miền Nam thêm 10 tuyến.
Vì thế, Phó Chủ tịch Hiệp hội vận tải Hà Nội đặc biệt nhấn mạnh chúng ta phải làm đường cao tốc hiện đại với tốc độ vừa phải để phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
Cần lập hội đồng đánh giá
Cùng bàn về vấn đề này, TS Nguyễn Xuân Thuỷ, chuyên gia giao thông cho rằng, ý kiến trái chiều là đúng vì không ai muốn một đất nước cứ mua đồ cũ nước ngoài.
"Trong ngành mới biết là chúng ta phải nhập vì không còn cách nào khác. Hiện nay, chúng ta có mấy trăm toa tàu khách quá hạn rồi nên buộc phải nhập những toa đó. Toa xe đó còn hơn rất nhiều những toa chúng ta đang dùng ở đây.
Nhiều người ngành khác cứ nghĩ rằng, mua đồ cũ là không đúng nhưng nếu bạn đến Cục Đường sắt hoặc Tổng Công ty Đường sắt sẽ thấy, việc mua toa 20-30 năm thậm chí 30-40 năm của nước ngoài là chuyện bình thường.
Bây giờ đối với toa tàu của Nhật tốt, đánh giá được, có thể dùng 10-15 năm nữa thì chúng ta vẫn có thể nhập để sử dụng", TS Thuỷ nói.
TS Nguyễn Xuân Thuỷ, chuyên gia giao thông.
Theo TS Nguyễn Xuân Thuỷ, việc mua tàu của nước ngoài là vấn đề diễn ra mấy chục năm nay chứ không phải mới. Những người ngoài ngành đường sắt hoặc không biết thì nghĩ rằng chúng ta mua đồ cũ, cho rằng nước mình là nơi chứa rác của thế giới. Thế nhưng, riêng đối với tàu hoả thì mấy chục năm nay chúng ta phải mua đầu máy, toa xe. Riêng toa tàu thì hầu hết là mua cũ của Trung Quốc.
"Cho nên chúng ta nhập toa xe cũ của Nhật Bản là chuyện không có gì mới. Nó là đòi hỏi tất yếu vì ngành đường sắt chúng ta chưa chế tạo được đầu máy, toa xe, chưa làm được toa xe tốt, hình thức đẹp, chất lượng, tiện nghi, độ êm nhẹ tốt... buộc chúng ta phải mua công nghệ của nước ngoài", ông Thuỷ lý giải.
Tuy nhiên, TS Nguyễn Xuân Thuỷ cũng lưu ý, khi nhập phải có hội đồng đánh giá chất lượng ký chịu trách nhiệm, đảm bảo kỹ thuật vẫn còn chạy được 10-15 năm, và tính an toàn, các hệ thống vẫn còn tốt thì chúng ta mới về.
TS Nguyễn Xuân Thuỷ cho rằng, nhập 37 toa tàu cũ của Nhật là việc "cực chẳng đã". Mua một toa xe hiện đại của nước ngoài đắt hơn cả chục lần trong khi Nhà nước đầu tư quá ít. Nhà nước chỉ tập trung nhiều về đường bộ chứ ít tập trung cho đường sắt, chiến lược như thế là chưa hợp lý.
"Chúng ta mong rằng, Nhà nước sẽ đầu tư mạnh mẽ hơn đối với ngành đường sắt chứ không manh mún, nhỏ lẻ như vừa rồi. Chúng ta có khả năng chế tạo được đầu máy, toa xe, cứ nhập từ nước ngoài mãi là không được", TS Nguyễn Xuân Thuỷ nêu quan điểm.
Có nên nhập 37 toa tàu cũ? Mới đây, Tổng công ty đường sắt Việt Nam đã có kiến nghị gửi Chính phủ xin nhập khẩu 37 toa tàu cũ của Nhật Bản để về khai thác. Điều dư luận băn khoăn nhất là công tác cải hoán được thực hiện và giám sát như thế nào? Nguồn thu có bù đắp được số tiền đã bỏ ra? Dư luận...