Được minh oan nhờ chiếc điện thoại cũ
Trong lúc Sam thụ án do bị cáo buộc giết người, cảnh sát lật lại vụ án, tìm thấy chiếc điện thoại trong phòng của cậu, bất ngờ phát hiện bức ảnh Sam chụp cùng bố vào điểm án mạng xảy ra. Có chứng cứ ngoại phạm, sau 8 năm, Sam được minh oan.
Năm 11 tuổi, Essayas Kassahun cùng anh trai từ Ethiopia di chuyển tới Anh với hy vọng có thể bắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp hơn sau khi cha mẹ họ bị mất trong tai nạn lao động. Cuộc sống tưởng chừng như đã mở ra cánh cửa mới cho hai anh em họ khi cả hai tìm được công việc và dần ổn định cuộc sống. Anh trai và Essayas được nhận làm phục vụ bàn trong một nhà hàng và không lâu sau đó Essayas vào bếp học việc do có khả năng nấu nướng.
Ngày 11/9/2004, khi Essayas đứng bên ngoài quán bar nói chuyện với người bạn tên Louis Colley thì nhóm thanh niên khoảng 4-5 người đến đánh Louis. Vài người còn mang theo gậy bóng chày và dao.
Sam Hallam bên mẹ và được chào đón khi vô tội trở về nhà.
Vài phút trước khi đến gặp và nói chuyện vớ i Essayas, Louis gặp nhóm này trên phố. Cho rằng bị nhìn đểu, nhóm này tìm Louis để xử lý. Khi biết lý do Essayas đã đứng ra xin lỗi hộ bạn và khuyên họ không nên tiếp tục đánh người nhưng chúng vẫn tiếp tục đánh và đánh cả Essayas.
Sau khi đám thanh niên bỏ đi, Essayas bất tỉnh. Louis cố gắng bò ra phía đường chính và gặp được người để kêu cứu ở trạm xăng gần đó. Essayas đã chết sau hai ngày do bị nhiều vết dao chém vào đầu. Nhân chứng duy nhất là Louis lại quá hoảng sợ nên không nhớ rõ.
Louis nói với cảnh sát rằng hôm đó trời rất tối và anh ta lại bị chứng kém trí nhớ do nghiện thuốc phiện nên chỉ nhớ rằng nhóm người đó có 5 người và chúng mặc đồ màu đen giống nhau.
Với manh mối ít ỏi từ nhân chứng duy nhất khiến cho phía cảnh sát rất khó khăn để xác định đối tượng tình nghi. Tất cả những thanh niên lêu lổng, có tiền án, tiền sự trong khu vực đều bị triệu tập nhưng họ đều có chứng cứ ngoại phạm tốt.
Vài ngày sau khi Essayas mất, một người tên là Phoebe Henville tới đồn cảnh sát khai báo rằng cô biết một trong những hung thủ chính là Sam Hallam. Ban đầu, Phoebe nói đã nhìn thấy Sam trong nhóm người đó nhưng về sau cô ta lại thay đổi lời khai nói rằng mình nghe bạn bè nói về một người tên Sam đã tham gia. Khi gặp Sam Hallam, Phoebe tin rằng chính cậu ta là kẻ giết Essayas.
Nhân chứng đáng tin cậy nhất là Louis, người có mặt tại hiện trường ban đầu nói không nhớ rõ nhưng cuối cùng lại khẳng định đã nhìn thấy Sam đứng một chân lên bụng Essayas với một con dao sau khi ra tay. Cảnh sát bắt Sam để điều tra trong sự ngỡ ngàng của cậu bé và cả gia đình.
Sam lo lắng và hoảng loạn nên không thể trả lời chính xác những câu hỏi của cảnh sát. Sam không nhớ nổi đã làm gì và ở với ai vào ngày xảy ra vụ ẩu đả dù chỉ mới xảy ra vài ngày trước đó. Sam trong lúc bị dồn ép trả lời câu hỏi đã nói dối rằng mình ở cùng một người bạn tên Timothy Harrington nhưng khi cảnh sát xác minh cho thấy Timothy Harrington không gặp Sam đã hai tuần.
Chỉ với hai nhân chứng không rõ ràng cùng với thái độ lo lắng sợ hãi của Sam, cảnh sát kết luận Sam là một trong số 5 thanh niên đã đánh đập và gây ra cái chết của Essayas. Vụ án nhanh chóng khép lại với bản án tù chung thân dành cho Sam vì tội Giết người và Che giấu tội phạm khi nhất quyết không khai ra đồng bọn còn lại.
Quá bất ngờ trước bản án, Sam rất suy sụp nhưng cũng nhanh chóng lấy lại tinh thần bởi cậu vẫn luôn tin vào công lý. Gia đình Sam đã trải qua một thời gian khủng hoảng trầm trọng bởi Sam là đứa trẻ ngoan ngoãn, biết quan tâm đến mọi người và đặc biệt chưa bao giờ gây gổ với ai. Tất cả bạn bè, hàng xóm của Sam đều xác nhận điều này và họ luôn tin tưởng đang có sự nhầm lẫn nào đó.
Cha của Sam vì quá đau lòng khi con trai duy nhất bị kết án chung thân cho tội ác mà ông tin là Sam không liên quan nên đã bị mắc chứng trầm cảm nặng. Một thời gian sau ông đã tự tử. Mẹ Sam, bà Wendy biến tất cả những nỗi đau thành nghị lực chiến đấu giành lại công lý cho con trai. Bà lập ra “chiến dịch Sam Hallam” kêu gọi mọi người ủng hộ để yêu cầu một phiên tòa xét xử lại và kêu gọi mọi người bất cứ ai có tin tức hay manh mối về vụ án sẽ thông báo cho bà.
Chiến dịch của bà Wendy đã nhận được sự ủng hộ của rất nhiều người và đã thu hút sự chú ý của ủy ban xem xét những vụ án hình sự năm 2008. Họ nhận thấy rằng không có bất kỳ bằng chứng pháp lý nào chứng tỏ Sam liên quan cái chết của Essayas được ghi trong hồ sơ vụ án ngoài lời khai không nhất quán của hai nhân chứng.
Ủy ban này quyết định cho người tiến hành điều tra lại vụ án. Tại nhà Sam, căn phòng của cậu vẫn được mẹ giữ nguyên kể từ khi Sam bị bắt. Tại đây, các nhà điều tra tìm thấy vật chứng quan trọng đó chính là chiếc điện thoại của Sam năm 2004. Trong quá trình phục hồi chiếc điện thoại người ta tìm thấy những bức ảnh của Sam chụp cùng bố và bà nội vào đúng khoảng thời gian xảy ra án mạng.
Điều này chứng minh Sam Hallam không thể có mặt tại hiện trường vụ án như hai nhân chứng xác định. Bằng chứng này chưa từng được cảnh sát nhắc tới và chính Sam có lẽ vì đã quá hoảng sợ mà cũng không nghĩ ra. Giải thích cho sự vô trách nhiệm trong điều tra năm đó, các cảnh sát Metropolitan đã cho rằng vì khi đó khoa học công nghệ chưa phát triển nên không có những máy móc, phương tiện tốt nhất phục vụ điều tra.
Video đang HOT
Cùng lúc với việc điều tra hồ sơ Sam Hallam các điều tra viên cũng rà soát lại toàn bộ hồ sơ của những người liên quan đến vụ án và nổi lên hồ sơ của Tyrone Isaacs, một trong những người bị nghi ngờ đầu tiên có liên quan đến vụ án nhưng sau đó đã được thả tự do vì có bằng chứng ngoại phạm.
Tyrone Isaacs là thanh niên lêu lổng bỏ học và thường xuyên tụ tập thành từng nhóm. Hơn thế nữa bằng chứng ngoại phạm mà Tyrone đưa ra rất mơ hồ nhưng lại được cảnh sát tin tưởng bỏ qua khi Tyrone nói đang ngủ trong phòng của mình trong thời gian vụ án xảy ra, nhưng không có ai kiểm chứng việc này bởi cha mẹ cậu ta không có ở nhà tối hôm đó.
Một lần nữa Tyrone Isaacs được triệu tập và xét hỏi. Ban đầu, Tyrone một mực khẳng định không liên quan gì đến cái chết của Essayas Kassahun nhưng với kinh nghiệm hỏi cung các nhà điều tra đã khiến Tyrone lúng túng, hoảng sợ và cuối cùng phải cúi đầu nhận tội.
Tyrone khai rằng cậu ta và 4 người bạn khác đã đi tìm Louis để xử lý vì cho rằng Louis đã nhìn đểu họ. Khi chúng gặp và đánh Louis thì Essayas lại đứng ra can ngăn nên chúng đã đánh cả hai người. Trong lúc tức giận lên cao lại sẵn có con dao giấu trong người, Tyrone đã đâm nhiều nhát vào đầu Essayas. Khi biết cảnh sát nghi ngờ Sam, chúng đã thỏa thuận sẽ thống nhất lời khai và chuyển hướng sang Sam. Kết quả là Sam phải nhận tội thay chúng.
Với những bằng chứng mới rõ ràng chứng minh Sam không liên quan cái chết của Essayas Kassahun. Ngày 18/5/2012, 8 năm sau khi phải chịu nhiều tủi nhục và mất mát, Sam đã được tòa tuyên bố vô tội và được thả tự do.
Bị bắt và kết án oan năm 17 tuổi, 8 năm sau công lý mới được trả lại cho Sam và gia đình cậu. Đã mất đi một phần tuổi thanh xuân nhưng dù sao cũng giúp cho Sam, cho những người dân vô tội tin vào sự công bằng của pháp luật.
Theo Công an nhân dân
Những vụ án oan chấn động thế giới (Kỳ 3)
Vì những tắc trách của cơ quan điều tra, sự sơ suất của các vị thẩm phán mà nhiều người vô tội đã phải chịu oan khuất, thậm chí bằng cả mạng sống của mình.
Luật gia nổi tiếng người Anh William Blackstone đã từng viết: "Thà bỏ sót 10 người phạm tội còn hơn để một người vô tội phải chịu án oan." Khái niệm này đã được nhiều người trên thế giới chấp nhận, và nó trở thành nền tảng cho các sinh viên trường luật ngay từ những năm đầu tiên. Mặc dù trong quy định của hệ thống tư pháp nước Mỹ, một người vẫn được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội, thế nhưng vẫn có những trường hợp những người vô tội bị kết án một cách vội vàng, thậm chí có nhiều người đã bị tử hình đầy oan khuất. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ giám định ADN, nhiều vụ án oan đã được làm sáng tỏ, nhiều nạn nhân đã được minh oan trong những vụ án từng làm chấn động dư luận thế giới. Chúng tôi tiếp tục giới thiệu với độc giả những vụ án mà những người bị kết án là nạn nhân của những nhận định và phán quyết sai lầm trong hệ thống tư pháp các nước trên thế giới.
7. Raymond Towler (Được minh oan và bồi thường nhờ xét nghiệm ADN)
Ngày 24/5/1981, một cậu bé 12 tuổi và một cô bé 11 tuổi bị một người lạ mặt dụ vào khu rừng ở khu bảo tồn Rocky River thuộc vùng Cleveland, bang Ohio, Mỹ để xem xác một con hươu. Sau đó cậu bé bị tấn công và bị trói vào gốc cây, còn cô bé bị người lại kia cưỡng hiếp.
Ba tuần sau đó, trong một cuộc tuần tra trên đường, cảnh sát phát hiện một người đàn ông có hình dạng khớp với các mô tả của nạn nhân trong vụ án này. Người đàn ông đó là Raymond Towler, một nhạc sĩ da đen ở Mỹ sống trong khu vực này.
Nhạc sĩ Raymond Towler
Ngày 18/9/1981, Towler bị cảnh sát hạt Cuyahoga truy tố với tội danh hiếp dâm, bắt cóc và hành hung khi mới 24 tuổi. Cảnh sát không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào ngoài mô tả và nhận diện của nạn nhân. Tuy vậy, tòa án vẫn phán quyết Towler phải chịu án chung thân vì các tội danh trên.
Đến năm 2004, một thẩm phán quyết định mở lại hồ sơ vụ án này và yêu cầu xét nghiệm ADN. Khi các công tố viên gửi một phong bì có chứa một chiếc lông của hung thủ được lấy trên người nạn nhân đến một phòng thí nghiệm tư nhân ở New Orleans, họ chỉ nhận được một chiếc phong bì rỗng. Một tháng sau, một chiếc phong bì khác được cho là có chứa da của hung thủ mắc lại dưới móng tay của nạn nhân được gửi đến phòng thí nghiệm, nhưng nó cũng trống không.
Towler vẫn không nản chí và yêu cầu tổ chức xét nghiệm ADN thêm một lần nữa. Ngày 5/9/2008, kết quả xét nghiệm mẫu ADN lấy từ tinh dịch dính trên quần lót nạn nhân cho thấy Towler không phải là hung thủ.
Ngày 5/5/2010, sau 29 năm trời đằng đẵng ngồi tù với tội danh hiếp dâm, bắt cóc và hành hung, Towler đã được tòa án hạt Cuyahoga tuyên bố vô tội và được trả tự do khỏi nhà tù Grafton.
Theo luật của bang Ohio, các cơ quan tư pháp của bang này đã phải bồi thường cho Towler 40.330 USD cho mỗi năm ông phải ngồi tù oan, và tổng mức bồi thường gần 1,2 triệu USD. Tuy nhiên, việc đầu tiên mà Raymond Towler làm sau khi được ra tù không phải là đòi tiền bồi thường mà là tổ chức một bữa tiệc pizza ăn mừng.
8. Rolando Cruz (Được giải tội trong khi chờ thi hành án tử hình)
Ngày 25/2/1983, cô bé Jeanine Nicarico 10 tuổi bị bắt cóc giữa ban ngày tại ngôi nhà ở Naperville, bang Illinois, Mỹ trong khi bố mẹ vắng nhà và các chị em đi học. Hai ngày sau đó, thi thể bị cưỡng hiếp dã man và bị đánh đập tới chết của cô bé được tìm thấy cách nhà 10 km.
Khi một thanh niên 20 tuổi tên là Rolando Cruz đến gặp cảnh sát và kể một câu chuyện bịa nhằm lấy khoản tiền thưởng 10.000 USD, anh ta bị cảnh sát nghi ngờ và bắt giữ ngay tối hôm đó.
Rolando Cruz
Vài tuần sau, một thanh niên khác tên là Alejandro Hernandez xuất hiện và tuyên bố rằng anh ta biết danh tính của những kẻ đã sát hại Jeanine, đồng thời đưa ra 2 cái tên là Steven Buckley và "Ricky". Cảnh sát đã bắt được Buckley, tuy nhiên tung tích của "Ricky" thì hoàn toàn không có dấu vết.
Giày của Buckley được các chuyên gia so sánh với dấu giày ở hiện trường và họ không phát hiện thấy sự trùng khớp. Tuy vậy, công tố viên Thomas Knight đã yêu cầu họ không tiết lộ điều này và đưa đôi giày đến một người tự xưng là chuyên gia, và người này tuyên bố rằng không những dấu giày trùng khớp mà người này còn có thể chỉ ra chiều cao và cân nặng của hung thủ.
Sau khi có kết luận của "chuyên gia" này, cảnh sát đã bắt giữ Cruz, Hernandez và Buckley để truy tố trước pháp luật. Sở dĩ cảnh sát vội vàng bắt giữ những người này vì lúc đó họ đang phải chịu sự chỉ trích nặng nề của dư luận về tiến độ điều tra chậm chạp.
Mặc dù không đưa ra được các bằng chứng thuyết phục, tòa án vẫn cho rằng bộ ba này đã hãm hiếp và sát hại Jeanine vào năm 1987. Thẩm phán đã tuyên án tử hình đối với Cruz và Hernandez trong một phiên tòa xét xử chung, còn Buckley được hủy bỏ cáo trạng sau khi bồi thẩm đoàn bác bỏ cáo buộc đối với anh ta.
Trước đó, một tên tội phạm khác là Brian Dugan bị bắt và chịu 2 án chung thân về tội giết người đã thú nhận với cảnh sát rằng hắn ta đã sát hại cô bé Jeanine Nicarico, thế nhưng thông tin quý giá này đã bị các công tố viên bưng bít tại phiên tòa xét xử Cruz.
Trong khi Cruz đang chờ đến ngày bị tử hình bằng thuốc độc, rất may là một tòa án đã quyết định mở lại hồ sơ vụ án và xét xử lại vì những sai phạm trong quá trình tố tụng vào năm 1994. Đến năm 1995, Cruz được tuyên bố vô tội trong phiên tòa thứ ba khi một sĩ quan cảnh sát từng đưa ra bằng chứng quan trọng chống lại Cruz thú nhận rằng ông ta đã nói dối. Bằng chứng xét nghiệm ADN cũng đã khẳng định sự vô tội của Cruz và chỉ ra thủ phạm thực sự giết hại Jeanine chính là Brian Dugan, đúng như những lời hắn đã thú nhận nhiều năm trước đó.
Sau 10 năm ngồi tù, Cruz đã được tòa án tuyên bố vô tội và được tha bổng vào năm 1995.
9. Rubin Carter (Được tuyên bố vô tội vì những sai sót trong quá trình tố tụng)
Rạng sáng ngaf17/6/1966, 2 người đàn ông xông vào quán bar Lafayette ở Paterson, bang New Jersey, Mỹ và bắt đầu xả súng điên loạn. Người pha chế rượu James Oliver và một khách hàng trúng đạn chết ngay tại chỗ. Một nữ khách hàng khác cũng qua đời 1 tháng sau đó vì những vết thương quá nặng. Trước khi qua đời, cô đã khai với cảnh sát rằng những kẻ tấn công là 2 người da đen, tuy nhiên cô không đưa ra bất cứ cái tên nào cụ thể.
Tên trộm Alfred Bello đang "hành nghề" ở gần quán Lafayette đã trở thành nhân chứng của vụ thảm sát này. Bello khai rằng anh ta đã nhìn thấy 2 người đàn ông da đen cầm một khẩu súng săn và súng ngắn đi qua một góc phố về phía quán Lafayette.
Một nhân chứng khác sống gần đó cho biết hai người đàn ông da đen này sau khi xả súng đã lên một chiếc xe màu trắng và bỏ chạy về phía tây. Tình cờ là chiếc xe của Rubin Carter, một võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp cũng có những đặc điểm giống như mô tả của các nhân chứng này, và cảnh sát đã ngay lập tức bắt giữ Rubin Carter và John Artis, mặc dù họ không có bất cứ chứng cứ nào khác.
Võ sĩ quyền anh Rubin Carter
Sau khi bắt giữ Carter và Artis, cảnh sát cũng không có đủ phương tiện để đối chiếu dấu vân tay của hai người này với các dấu vết tại hiện trường. Các nhân chứng cũng không thể xác định được 2 người này trong một buổi nhận dạng, và tất cả những gì mà cảnh sát có là một viên đạn súng lục cỡ nòng .32 và một viên đạn súng săn trong xe của Carter.
Trong phiên tòa được tổ chức vào năm 1967, mặc dù một số nhân chứng xác định rằng cả Carter và Artis đều có mặt tại một quán bar khác trong đêm xảy ra án mạng, bồi thẩm đoàn vẫn xác định cả hai người có tội dựa trên lời khai của tên trộm Bello và một đồng bọn tên là Bradley. Thẩm phán đã phán quyết án chung thân không ân xá đối với 2 người này, mặc dù công tố viên đề nghị án tử hình.
Năm 1974, Bello và Bradey đã rút lại lời làm chứng của mình chống lại Carter và Artis, tuy nhiên quan tòa Samuel Larner đã từ chối tổ chức một phiên tòa mới với lý do việc rút lại lời khai này "thiếu tính chân thực".
Sau nhiều lần kháng cáo của Carter và Artis, mãi đến năm 1985, tòa án mới đồng ý xem xét lại vụ án và phán quyết rằng hai người này đã không được xét xử công bằng vì những cáo buộc mang tính phân biệt chủng tộc và thiếu chứng cứ thuyết phục. Đến năm 1988, tòa án đã quyết định bác bỏ cáo trạng đối với 2 người này và tuyên bố họ vô tội trong một vụ án nổi tiếng vì những khiếm khuyết khó có thể tưởng tượng được trong hệ thống tư pháp của nước Mỹ.
10. Ronald Cotton (Ngồi tù 11 năm vì bị nạn nhân xác định nhầm)
Trong tháng 7/1984, ngôi nhà của cô gái 22 tuổi Jennifer Thompson ở hạt Alamance, bang Bắc Carolina, Mỹ bị đột nhập 2 lần, và cả hai lần này kẻ đột nhập đều kề dao vào cổ để cưỡng hiếp cô, sau đó lục tung đồ đạc của cô và lấy đi nhiều tiền cùng đồ vật có giá trị.
Vài ngày sau đó, Thompson tới đồn cảnh sát địa phương báo án và chỉ vào bức hình của người đàn ông tên là Ronald Cotton mà cô tin là thủ phạm. Trong buổi nhận dạng được tổ chức sau đó, cô gái này cũng chỉ vào Cotton và nói rằng đó là kẻ đã tấn công cô.
Ronald Cotton (trái) và Jennifer Thompson
Trong phiên tòa xét xử Cotton được tổ chức vào năm 1985, cô gái này quả quyết: "Tôi chắc chắn rằng anh ta chính là kẻ đã cưỡng hiếp tôi, và tôi đứng đây để làm chứng chống lại anh ta." Với lời khẳng định "chắc chắn" này của nạn nhân, thẩm phán đã tuyên án chung thân đối với Cotton.
Tuy nhiên, 2 năm sau, có một phạm nhân nói với các bạn tù rằng hắn ta chính là kẻ đã cưỡng hiếp Thompson, và phiên tòa xét xử Cotton được tổ chức lại. Tuy nhiên khi ra trước tòa, phạm nhân này đã bác bỏ lời thú nhận của mình. Và bản thân Thompson cũng khẳng định rằng cô ta chưa bao giờ thấy mặt hắn trước đây.
Sau sự việc này, Cotton có thể đã phải dành hết quãng đời còn lại trong tù nếu như anh không vô tình xem được phiên tòa xét xử O.J. Simpson từ chiếc tivi trong nhà tù và nghe về việc xét nghiệm ADN vào năm 1995, sau khi anh đã ngồi tù 11 năm. Cotton đã làm đơn đề nghị xin được kiểm tra ADN trong vụ án của mình.
Và khi kết quả xét nghiệm ADN được công bố, cô Thompson đã thực sự bị sốc, bởi Cotton hoàn toàn vô tội. Chính người tù mà cô từng thề rằng chưa từng thấy trước đây mới là hung thủ đích thực đã 2 lần cưỡng hiếp cô. Sau khi có kết luận này, cô Thompson đã suy sụp và có cảm giác như cô đã phản bội mọi người và chính bản thân mình.
Sau khi có kết quả ADN, Cotton được tuyên bố vô tội và được thả tự do sau suốt 11 năm đấu tranh không mệt mỏi cho công lý.
Tuy nhiên các chuyên gia pháp lý cho rằng những sai lầm của nhân chứng là nguyên nhân số 1 gây ra những phán quyết sai lầm trong quá trình xét xử, và thật đáng buồn là những sai lầm này lại rất phổ biến trong tố tụng. Vì những sai lầm này của Thompson mà Cotton đã phải uổng phí 11 năm trong nhà tù.
Tuy vậy Cotton cũng không hề tỏ ra tức giận với Thompson, và thậm chí sau này họ còn trở thành bạn của nhau để nói chuyện với mọi người về những sai lầm trong hệ thống tư pháp Mỹ. Cotton còn nói: "Mặc dù bạn không thể quên, nhưng bạn có thể tha thứ", đồng thời tạ ơn Chúa vì xét nghiệm ADN, bởi nếu không có nó, chắc giờ này anh vẫn còn ngồi sau song sắt với nỗi oan khuất không thể nào gột rửa.
Lời kết: Tấm "lưới trời" lồng lộng của luật pháp đã buộc nhiều kẻ xấu xa phải đền tội trước công lý, nhưng nó cũng khiến không ít người trong lịch sử phải chôn vùi tuổi xuân trong chốn lao tù, thậm chí là bị tước đoạt cả cuộc sống một cách tức tưởi và oan khuất. Có những người may mắn được tòa án lật lại hồ sơ và trả lại công lý trước ngày bị đưa ra pháp trường, nhưng cũng có những người đã phải mòn mỏi hàng chục năm trời sau song sắt, thậm chí là bị tước đoạt mạng sống với nỗi oan khó bề gột rửa. Có rất nhiều lý do khiến họ bị đẩy vào chốn lao tù đầy oan nghiệt, thế nhưng với những người may mắn được minh oan, tự do đối với họ vẫn là giấc mơ thành sự thật còn quan trọng hơn cả sự trả thù.
Theo Listverse
Những vụ án oan chấn động thế giới (Kỳ 2) Có những người bị treo cổ chỉ vì lời khai vu vơ của nhân chứng, có những người may mắn thoát chết nhưng bị chôn vùi tuổi xuân trong ngục tù vì sai lầm của cảnh sát. Luật gia nổi tiếng người Anh William Blackstone đã từng viết: "Thà bỏ sót 10 người phạm tội còn hơn để một người vô tội phải...