Dùng thuốc tiêm PrEP dự phòng HIV có tác dụng phụ không?
Thuốc PrEP (viết tắt của từ tiếng Anh Pre-Exposure Prophylaxis) là thuốc dự phòng trước phơi nhiễm. Thuốc PrEP có 2 loại thuốc tiêm ( CAB LA) và thuốc dạng viên nén PrEP.
Thuốc dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) dạng uống hàng ngày hiện đang là can thiệp có hiệu quả cao trong giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao, được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo từ năm 2015.
Tuy nhiên, mới đây khi Kết quả ban đầu của nghiên cứu HPTN 084 tại Mỹ được công bố cho thấy, thuốc dự phòng trước phơi nhiễm HIV dạng tiêm tác dụng kéo dài Cabotegravir (CAB LA) là một can thiệp hiệu quả. CAB – LA cung cấp thêm lựa chọn cho khách hàng, đặc biệt đối tượng gặp khó khăn trong việc tuân thủ sử dụng các can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV khác. Thuốc được sử dụng qua đường tiêm bắp tay, nhắc lại mỗi 8 tuần. Cabotegravir ( thuốc tiêm PrEP) là loại thuốc tiêm đang được giới y khoa kỳ vọng sẽ hiệu quả hơn so với thuốc dạng viên PrEP khi giúp giảm tới 99% nguy cơ nhiễm HIV.
Theo BS. Kimberly Green, Giám đốc Dự án USAID/ PATH STEPS, PrEP dạng tiêm với sản phẩm đầu tiên được đưa ra thị trường có tên là Cabotegrafir với tác dụng kéo dài. Lần đầu tiên được FDA Hoa Kỳ phê duyệt để sử dụng tại Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2021, vì vậy kể từ thời điểm đó, sản phẩm đã có mặt tại Úc bởi Ủy ban Châu Âu, ở Nam Phi, Zimbabwe và các quốc gia khác và cũng đang chờ đăng ký ở một số quốc gia ở Châu Á.
Thuốc tiêm PrEP chỉ có phản ứng rất nhẹ không đáng lo ngại
Vì vậy kinh nghiệm triển khai Cabotegravevir với tác dụng kéo dài còn tương đối mới. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm ở Hoa Kỳ, có mức độ quan tâm và chấp nhận cao đối với việc sử dụng PrEP với tác dụng lâu dài chủ yếu là để thuận tiện vì việc tiêm thuốc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều khi bạn đã ổn định sau mỗi hai tháng.
Đối với những người không muốn uống thuốc thường xuyên, thật thú vị khi có thông tin sơ bộ này từ Hoa Kỳ từ các địa điểm khác để có được một số thông tin hứa hẹn về sản phẩm nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn để có được bức tranh đầy đủ liên quan đến khả năng chấp nhận của sản phẩm có tác dụng kéo dài mới này
Video đang HOT
Trả lời câu hỏi về thuốc tiêm PrEP có tác dụng phụ không và nếu đang dùng thuốc tiêm này thì có cần dùng các biện pháp dự phòng khác không, BS. Kimberly Green, cho biết, với PrEP đường uống, có một số tác dụng phụ tuy nhiên PrEP đường uống vẫn rất an toàn như đã đề cập. Thông thường trong tháng đầu tiên, người bệnh có thể bị tiêu chảy hoặc buồn nôn và tình trạng này được giải quyết tương đối nhanh chóng.
BS. Kimberly Green – Giám đốc Dự án USAID/ PATH STEPS
Đối với PrEP dạng tiêm, cụ thể là CAB-LA, tác dụng phụ chủ yếu thực sự là phản ứng xung quanh chỗ tiêm, vì vậy sẽ có cảm giác đau nhức sau khi tiêm và có thể khắc phục bằng cách dùng thuốc giảm đau hoặc chườm đá hoặc các cách khác để giảm đau của chỗ tiêm, và các nghiên cứu cho thấy rằng sau vài tháng đầu tiên tiêm, ngay cả phản ứng đó cũng biến mất.
Nhiều người băn khoăn về việc dùng thuốc tiêm PrEP được dành cho những đối tượng, BS. Kimberly Green cho biết, điều thú vị về các lựa chọn không phải là cái này hay hơn cái kia. Ví dụ, PrEP uống tốt hơn PrEP tác dụng kéo dài. Đó thực sự là sự lựa chọn. Nó cho phép cá nhân thích sản phẩm này hơn sản phẩm khác để tiếp cận thuốc đó. Chúng ta phải nhận ra rằng con người có thể thay đổi theo thời gian. Có thể họ bắt đầu sử dụng PrEP đường uống nhưng có những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống khiến họ chuyển sang PrEP tác dụng kéo dài sẽ tốt hơn và điều đó là hoàn toàn có thể. Quan trọng là cách họ lựa chọn sản phẩm nào.
“Vì vậy, điều quan trọng nhất là chúng ta cân nhắc và lựa chọn phù hợp, về tổng thể, chúng tôi có phạm vi bao phủ rộng hơn trong phòng ngừa HIV cho các cá nhân. Điều đó cũng có thể giúp những quốc gia như Việt Nam có thể đạt được mục tiêu chấm dứt bệnh AIDS vào năm 2030. Vì vậy, đây thực sự là thời điểm mang tính cách mạng rất thú vị – ngay bây giờ để có sẵn nhiều loại sản phẩm. Tại Việt Nam – PrEP tác dụng kéo dài chưa có nhưng chúng tôi sẽ sớm nói thêm về kế hoạch cho vấn đề đó’, BS. Kimberly Green chia sẻ.
Cảnh báo đáng sợ về vi khuẩn
Một nghiên cứu quy mô lớn cho thấy vi khuẩn trở thành nguyên nhân gây tử vong cao thứ 2 thế giới, chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ
Nghiên cứu quốc tế được công bố trên tạp chí y học hàng đầu The Lancet hôm 22-11 chỉ ra trong năm 2019 có tới 7,7 triệu ca tử vong liên quan đến 33 mầm bệnh vi khuẩn, chiếm 13,6% tổng số ca tử vong toàn cầu.
Số ca tử vong do bệnh truyền nhiễm nói chung là 13,7 triệu ca, tức vi khuẩn đã lấn át cả virus. Như vậy, vi khuẩn trở thành nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 2 thế giới, chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ.
"Chúng nên được coi là ưu tiên khẩn cấp để can thiệp trong cộng đồng y tế toàn cầu" - trang MedScape dẫn lời chuyên gia Mohsen Naghavi của Trường ĐH Washington (Mỹ), cho biết.
33 vi khuẩn nói trên được tìm thấy trong 11 hội chứng truyền nhiễm chính ở 204 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số này, có 5 loài đặc biệt nguy hiểm là tụ cầu vàng, E.coli, phế cầu khuẩn, trực khuẩn Klebsiella pneumoniae và trực khuẩn mủ xanh và chúng gây ra 54,9% số ca tử vong do vi khuẩn. Tụ cầu vàng (gây ngộ độc tiêu hóa, nhiễm trùng da, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng bệnh viện...) gây tử vong nhiều nhất với hơn 1 triệu ca.
Nghiên cứu cũng chỉ ra khoảng cách về tỉ lệ tử vong do vi khuẩn giữa các vùng giàu và nghèo. Vùng châu Phi Hạ Sahara ghi nhận số ca tử vong do nhiễm khuẩn là 230 ca trên 100.000 dân nhưng con số này ở những vùng được cho là có thu nhập cao, như Tây Âu, Bắc Mỹ... là 52 ca trên 100.000 dân.
Khoảng cách vắc-xin, tình trạng sử dụng kháng sinh không đúng ở các quốc gia đang phát triển được chỉ ra trong sự khác biệt này.
Trại tị nạn Alla Futo ở vùng ngoại ô thủ đô Mogadishu - Somalia, một quốc gia thuộc vùng châu Phi Hạ Sahara, tâm điểm của bệnh do vi khuẩn Ảnh: REUTERS
Cuộc nghiên cứu trên là đánh giá toàn cầu đầu tiên về tỉ lệ tử vong do vi khuẩn gây ra. Giới chuyên gia nhận định những dữ liệu này nêu bật thách thức mà các bệnh nhiễm khuẩn gây ra đối với y tế công cộng toàn cầu.
Họ cho rằng cần đưa kết quả nghiên cứu mới vào các sáng kiến y tế toàn cầu để có thể nghiên cứu sâu hơn những mầm bệnh có khả năng gây chết người, cũng như cần có sự đầu tư phù hợp để giảm số ca nhiễm và tử vong.
Riêng nhóm tác giả cho rằng việc thiếu dữ liệu về gánh nặng toàn cầu do vi khuẩn khiến việc thiết lập các ưu tiên về sức khỏe cộng đồng trở nên khó khăn. Giờ đây, kết quả công trình trên giúp đề ra các chiến lược nhằm giảm bớt gánh nặng này.
Trước hết, dự phòng lây nhiễm là nền tảng, trong đó có các chương trình nhằm giảm nhiễm trùng bệnh viện, giáo dục sức khỏe cộng đồng, quản lý suy dinh dưỡng, giúp người dân tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh tốt hơn...
Ngoài ra, cần tăng cường tiêm chủng vì một số loài đã có vắc-xin, ví dụ phế cầu khuẩn; cũng như đầu tư phát triển vắc-xin thế hệ mới.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm sự sẵn sàng của các dịch vụ chăm sóc khẩn cấp nhằm giảm số ca tử vong do nhiễm khuẩn, bao gồm tiếp cận kịp thời với kháng sinh thích hợp, nâng cao năng lực vi sinh để xác định mầm bệnh. Cuối cùng, đẩy mạnh phát triển kháng sinh mới trước mối đe dọa ngày càng tăng của vi khuẩn kháng thuốc.
Cũng liên quan đến mối đe dọa trên, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hôm 21-11 cho biết đã triệu tập hơn 300 nhà khoa học để xem xét bằng chứng về 25 họ vi khuẩn và virus có nguy cơ gây ra đợt bùng phát dịch bệnh hoặc đại dịch tiếp theo.
Nỗ lực này sẽ đưa ra hướng dẫn cho sự đầu tư, nghiên cứu và phát triển toàn cầu nhằm chống lại các mầm bệnh nguy hiểm nhất, đặc biệt trong lĩnh vực vắc-xin, xét nghiệm và thuốc điều trị.
Dấu hiệu chuyển nặng khi ngộ độc thực phẩm bởi salmonella Salmonella là loại vi khuẩn có thể gây ra ngộ độc thực phẩm. Tuy hiếm xảy ra nhưng một vài trường hợp nhiễm salmonella có thể tử vong. Thông tin từ Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC Mỹ) cho hay salmonella là loại vi khuẩn gây ngộ độc được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm như thịt...