Đừng “quyền anh, quyền tôi”nữa!
“Đến lúc chúng ta cần đưa quy định bị can có quyền được giữ im lặng trước khi luật sư bào chữa cho họ đến…”, PGS Nguyễn Ngọc Chí nói.
“Đến lúc chúng ta cần đưa quy định bị can có quyền được giữ im lặng trước khi luật sư bào chữa cho họ đến…”, PGS Nguyễn Ngọc Chí nói.
Chắc chắn sẽ giảm oan sai
- Theo ông, quyền im lặng của bị can có vai trò, ý nghĩa như thế nào?
Trong quá trình điều tra, để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bên cạnh các biện pháp thu thập chứng cứ khác, còn có biện pháp lấy lời khai của người thực hiện hành vi phạm tội, trong tố tụng gọi là xét hỏi bị can. Lời khai của bị can có ý nghĩa rất lớn trong việc chứng minh tội phạm.
Tuy nhiên, trong luật cũng quy định lời khai của người làm chứng, của bị can, bị cáo chỉ được sử dụng làm chứng cứ khi phù hợp với các chứng cứ khác và thực tế khách quan. Nếu coi lời khai là biện pháp quan trọng nhất để thay cho các chứng cứ khác trong quá trình chứng minh tội phạm là sai lầm, song trong thực tế vẫn có những khuynh hướng sai lầm như thế.
Thứ hai, trong hỏi cung bị can còn xảy ra tình trạng thường thấy là bức cung, mớm cung, nhục hình. Vì thế, lời khai của những người này không phản ánh sự thật khách quan của vụ án, dẫn đến oan sai.
Từ những lẽ đó, trong tất cả các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ (kể cả hoạt động hỏi cung bị can) cần phải có mặt của luật sư. Đây là điểm mấu chốt và chỉ những bản hỏi cung có chữ ký của luật sư mới có giá trị pháp lý để chứng minh tội phạm. Đi kèm với quy định này thì bị can được quyền giữ im lặng cho đến khi luật sư có mặt và tư vấn cho họ.
- Như thế có nghĩa là khi áp dụng quyền này, chúng ta sẽ tránh được những oan sai?
Nên nhớ, quyền giữ im lặng chỉ là một trong những quyền con người ở lĩnh vực tư pháp. Do vậy nó cũng chỉ là một trong những yếu tố gây ra oan sai thôi, nhưng chắc chắn sẽ làm oan sai giảm.
- Vậy tại sao ta không áp dụng sớm quyền này, thưa ông?
Tôi nghĩ do nhiều yếu tố. Trước hết, vì nó liên quan đến quyền con người, mà quyền này cần phải có quá trình đấu tranh, thay đổi nhận thức mới nhận ra được. Thứ nữa, trước đây điều kiện, hoàn cảnh của ta chưa cho phép nên vẫn chưa thể áp dụng.
PGS Nguyễn Ngọc Chí, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ pháp lý, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đâu còn thời “quyền anh – quyền tôi”!
Video đang HOT
Ông Nguyễn Hòa Bình, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao – (KSNDTC) cho biết trong cuộc thảo luận tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật Tổ chức tòa án (sửa đổi) rằng, cơ quan điều tra không muốn sửa luật theo hướng quy định quyền im lặng của bị can. Theo ông thì vì sao lại có chuyện này?
Câu của ông Viện trưởng Viện KSNDTC thì có lẽ tôi cũng tin được. Có thể trong hoạt động thực tiễn điều tra có những bị can rất ngoan cố, hoặc bên cạnh luật sư tác nghiệp tốt thì còn có những luật sư chưa thực hiện đúng trách nhiệm của mình cho nên họ mới có ý kiến như thế.
Nhưng nếu đề xuất đó có động cơ bảo vệ lợi ích của một ngành thì đó là điều không nên. Bây giờ đâu còn là thời của “quyền anh – quyền tôi” nữa, ngay luật tố tụng hình sự, luật tòa án cũng không phân chia quyền lực cho cơ quan này, cơ quan khác mà tất cả đều hướng tới giải quyết vụ án khách quan, không làm oan người vô tội mà cũng không được để lọt tội phạm kia mà.
- Ở một khía cạnh nào đó thì việc người ta ngại đưa quyền này vào trong luật cũng là điều dễ hiểu?
Đúng. Vì có thể, với những điều tra viên, họ sẽ “nhàn” hơn nếu không áp dụng quyền này. Nhưng tôi nói rồi, cần phải vì cái chung của xã hội chứ không thể chỉ nghĩ đến cái tiện lợi cho riêng mình, cho ngành mình mà bác đi cái quyền con người ấy.
- Có người lo ngại nếu luật hóa quyền này, nó sẽ tạo ra sự xung đột giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ông thấy sao?
Bản thân việc giải quyết vụ án hình sự đã là một xung đột. Ở các nước coi việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết tranh chấp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội chứ không phải là giữa cơ quan này với cơ quan khác. Do đó, tôi cho rằng, việc lo ngại có sự xung đột giữa các cơ quan tham gia tố tụng là hiểu sai và không nên có tư tưởng đó. Nếu có thì cần phải loại bỏ!
Phải thay đổi hệ thống chính sách
- Để luật hóa quyền im lặng thì hẳn cũng phải có những cơ sở nhất định. Theo ông thì ở ta đã có được những cơ sở ấy chưa?
Tôi cho rằng, việc nhận thức cần phải luật hóa quyền im lặng đã là bước đệm đầu tiên rồi. Dĩ nhiên, chúng ta còn nhiều rào cản và buộc phải tháo gỡ để quyền im lặng được thừa nhận và thực thi.
- Cụ thể, đó là những rào cản gì và làm như thế nào, thưa ông?
Thứ nhất là cơ chế pháp luật của mình chưa sẵn sàng với quy định này. Do đó, khi luật hóa quyền im lặng của bị can thì phải sửa một loạt quy định của pháp luật có liên quan, từ luật tổ chức, luật tố tụng đến luật nội dung (luật hình sự). Chẳng hạn, trong luật nội dung có quy định người thật thà khai báo thì được miễn giảm trách nhiệm hình sự, không khai báo thì nhận tình tiết tăng nặng. Khi quy định quyền giữ im lặng được phê chuẩn thì những quy định này cần phải bỏ.
Thứ hai là đội ngũ luật sư phải được tăng về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Cần phải bãi bỏ quy định về giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư.
Thứ ba, phải nâng cao nhận thức cho xã hội để bản thân người bị buộc tội nhận thức được quyền và trách nhiệm của mình. Rồi ngay cả đội ngũ điều tra viên cũng cần phải nâng cao kiến thức nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm, đạo đức tác phong…
- Bây giờ mới bàn đến chuyện luật hóa quyền im lặng thì có bị coi là muộn?
Không bao giờ là muộn cả vì nhận thức là một quá trình, nó là một trong những quyền con người mà quyền này phải qua sự đấu tranh, phát triển của xã hội thì đến một lúc nào đó mới ghi nhận được. Đã đến lúc chúng ta cần phải đưa quy định bị can có quyền được giữ im lặng trước khi luật sư bào chữa cho họ đến để đảm bảo quyền con người, đồng thời đảm bảo việc tố tụng được thực hiện khách quan. Bây giờ không còn là lúc bàn chuyện “quyền anh, quyền tôi” nữa mà phải vì lợi ích chung của xã hội, đừng trì hoãn thêm việc đưa quyền này vào trong luật.
- Trân trọng cảm ơn ông!
“Quyền im lặng là một trong những nội dung của quyền con người, nó gắn liền với mô hình tố tụng tranh tụng, trong khi ở ta vẫn còn theo mô hình thẩm vấn. Do vậy, việc đưa một quyền tưởng như là điều bình thường này song thực chất nó sẽ thay đổi cả một mô hình tố tụng”.
“Theo xu hướng quá trình giải quyết vụ án hình sự thì phải hình thành hai bên rõ ràng là bên buộc tội và bên gỡ tội, đồng thời đảm bảo hai bên phải bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ và lý lẽ để tranh tụng với nhau. Điều 103 Hiến pháp 2013 có quy định: Nguyên tắc tranh tụng tại tòa được bảo đảm. Muốn vậy, bên gỡ tội (luật sư) phải được tiến hành sử dụng một số biện pháp điều tra phù hợp để thu thập chứng cứ. Khi làm được như thế thì mới mong quyền im lặng của bị can khi thông qua sẽ thực thi đúng”.
PGS Nguyễn Ngọc Chí
Theo_Kiến Thức
Gần 20 cán bộ làm oan ông Chấn chưa chắc sẽ "hạ cánh an toàn"
Thực tiễn pháp lý trong thời gian qua có một nghịch lý là lấy lý do năng lực chuyên môn yếu kém hoặc lỗi vô ý thì những người tiến hành tố tụng làm oan người vô tội đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và khỏi phải hoàn trả tiền mà nhà nước đã bồi thường cho người bị oan.
Trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Nguyễn Thanh Chấn cách đây 10 năm sẽ được xác định như thế nào nếu ông Chấn được chính thức minh oan?
"Năng lực yếu kém" cần được xem là "thiếu trách nhiệm"
Theo thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, những người trực tiếp điều tra vụ án của ông Chấn đã phủ nhận dùng nhục hình, ép cung. Những người trực tiếp xét xử vụ án của ông Chấn cũng đã phủ nhận việc cố ý ra bản án trái pháp luật.
Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm dưới hình thức lỗi cố ý sẽ gặp nhiều khó khăn, mặc dù hậu quả xảy ra là đặc biệt nghiêm trọng (như tội "ra bản án trái pháp luật" tại Điều 295, tội "ra quyết định trái pháp luật" tại Điều 296, tội "dùng nhục hình" tại Điều 298, tội "bức cung" tại Điều 299 Bộ luật Hình sự).
Có người cho rằng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự được những người đã tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm vì do nghiệp vụ non kém, mục đích là phòng, chống tội phạm, hơn nữa hiện nay họ đang giữ những chức vụ, trọng trách quan trọng trong cơ quan nhà nước ở tỉnh Bắc Giang.
Theo chúng tôi, Bộ luật Hình sự có "tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" tại Điều 285 Bộ luật Hình sự là tội danh mà chúng ta có thể tham khảo nếu chúng ta muốn xác định trách nhiệm hình sự của những người liên quan trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm, trong trường hợp chúng ta không chứng minh được họ xâm phạm hoạt động tư pháp.
Địa chỉ gây oan "chính danh": Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao
Giả sử căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của nhà nước đã hội đủ trong vụ việc của ông Chấn (có bản án, quyết định chính thức xác định ông Chấn bị tù oan 10 năm) thì nhà nước sẽ phải bồi thường. Cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường cho ông Chấn là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội (Điều 29, Điều 32 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước).
Nếu Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội bồi thường thiệt hại cho ông Chấn (tiền từ ngân sách nhà nước) thì ai sẽ phải hoàn trả tiền cho ngân sách nhà nước hay không có ai phải hoàn trả khoản tiền này cho nhà nước?
Lỗi vô ý: gây oan thấu trời cũng khỏi móc túi bồi thường!
Theo Khoản 2 Điều 57 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, trường hợp nhiều người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ liên đới hoàn trả. Tuy nhiên, trước tiên chúng ta cần xác định người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả hay không.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 620).
Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại thì không phải chịu trách nhiệm hoàn trả. Căn cứ theo đó, nếu những người tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm không có lỗi hoặc có lỗi vô ý làm oan ông Chấn thì không có trách nhiệm hoàn trả.
Với những diễn biến vụ việc trong thời gian qua và với quy định của pháp luật hiện nay, rất khó để buộc những người tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân theo hai thủ tục sơ và phúc thẩm) phải chịu trách nhiệm hoàn trả.
Quan sát thực tiễn pháp lý trong thời gian qua, do năng lực chuyên môn yếu kém hoặc do lỗi vô ý thì những người tiến hành tố tụng làm oan người vô tội đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hầu như là vấn đề hoàn trả tiền mà nhà nước đã bồi thường cũng không được đặt ra sau đó.
Như đã phân tích, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm sẽ là đề tài mà chúng ta tiếp tục bàn luận. Và nếu họ không hoàn trả khoản tiền mà nhà nước đã bồi thường cho ông Chấn thì chúng ta cần xem xét lại các quy định của pháp luật. Bởi lẽ số tiền mà nhà nước sẽ phải bồi thường cho ông Chấn là tiền từ ngân sách nhà nước, thực chất là tiền của nhân dân.
Danh sách các cán bộ gây nên cái án tù chung thân oan trái cho ông Chấn sau 10 năm trong tù theo tố cáo của ông Chấn gồm: Ông Thái Xuân Dũng, nguyên là Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Phó phòng Cảnh sát điều tra. Hiện nay, ông Dũng là Chánh thanh tra Công an tỉnh Bắc Giang, quân hàm đại tá.
Ông Lê Văn Dũng, thời điểm năm 2003 là Phó phòng Cảnh sát điều tra trực tiếp chỉ huy điều tra vụ án Nguyễn Thanh Chấn. Hiện ông này là Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC47), quân hàm đại tá.
Ông Đào Văn Biên, điều tra viên nay là phó Trưởng phòng PC45; ông Nguyễn Đình Dung là cán bộ điều tra chính của vụ án Nguyễn Thanh Chấn, nay là Phó trưởng Công an huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Ông Trần Nhật Duật là điều tra viên, nay là Phó trưởng Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ông Nguyễn Trung Thành, điều tra viên, người trực tiếp hỏi cung ông Chấn, hiện đang là Phó trưởng phòng Công tác Đảng, công tác quần chúng. Riêng một điều tra viên khác tên là Tân đã chết vì tai nạn giao thông.
Riêng ông Phạm Văn Minh hiện đang giữ cương vị Giám đốc Công an tỉnh Bắc Giang, vào thời điểm năm 2003 khi ông Chấn bị bắt giữ để làm rõ, ông Minh đương chức Phó giám đốc - Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang cũng là người liên đới trách nhiệm.
Ngoài các cán bộ điều tra nói trên, còn có Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang Nguyễn Tiến Lựu, người ký Bản cáo trạng số 51/KSĐT-HS ngày 10.2.2004. Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang Nguyễn Minh Năng (chủ tọa) và thẩm phán Trần Văn Duyên đã xét xử phiên tòa sơ thẩm. (Ông Chấn còn bỏ sót ba hội thẩm nhân dân trong phiên tòa xử sơ thẩm).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang giữ quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm ngày 26.3.2004 là ông Đặng Thế Vinh. Thư ký phiên tòa là ông Lê Khánh Hưng, cán bộ tòa án.
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao Phạm Tuấn Chiêm, chủ tọa phiên tòa (nguyên là Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) cùng hai thẩm phán Quản Hùng và Hoàng Doãn Đức. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tối cao giữ quyền công tố phiên tòa phúc thẩm là ông Nguyễn Khắc Du, kiểm sát viên. (Ông Phạm Tuấn Chiêm ký bản án phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27.7.2004)
Theo Một thế giới
Người cha cắn ngón tay lấy máu viết đơn kêu oan cho con trai Chỉ có niềm tin mãnh liệt vào sự vô tội của đứa con trai mình, người cha già mới làm được một điều không tưởng như thế... Gần 5 năm trời long đong hết cơ quan này đến cơ quan khác kêu oan nhưng đứa con yêu thương vẫn chịu cảnh tù đày. Nuốt đau đớn vào lòng, cha tử tù Nguyễn Văn...