Du lịch ‘đói’ nhân lực chất lượng cao
Việc thiếu nhân lực cả về số lượng và chất lượng được xem là rào cản đối với ngành du lịch cao cấp mà Việt Nam hướng đến.
Nhiều sinh viên và các bạn trẻ ứng tuyển tại ngày hội tuyển dụng JobFair 2019, ngày 25-5 – Ảnh: N.BÌNH
Nhiều chương trình liên kết đào tạo được triển khai nhằm cải thiện nguồn nhân lực hiện nay, dần dần đáp ứng nhu cầu thực tế.
Tìm được người là mừng rồi!
Bên lề hội thảo “Tạo những trải nghiệm đáng nhớ cho khách hàng” do CLB Quản lý buồng Việt Nam tổ chức ngày 25-5, ông Nguyễn Quang – chủ tịch CLB Quản lý buồng Việt Nam – cho biết trong 10 năm gần đây, số lượng bạn trẻ nộp đơn theo học nghề phòng buồng (housekeeping) không còn nhiều, các khách sạn đang chấp nhận tuyển những nhân sự không có kỹ năng hay được đào tạo chuyên nghiệp để làm việc.
Thậm chí nhiều đơn vị chấp nhận lấy lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, lao động cao tuổi để đủ người làm. Theo ông Quang, chất lượng dịch vụ các khách sạn Việt Nam hiện nay, đặc biệt là chất lượng dịch vụ buồng phòng khó cải thiện và thiếu ổn định do thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Với các khách sạn tập đoàn quốc tế, nhờ có hệ thống giám sát, theo dõi quy trình chặt chẽ nên vẫn duy trì được đẳng cấp chất lượng dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế, ổn định.
Tuy nhiên, các khách sạn Việt Nam, đặc biệt là những khách sạn đơn lẻ chưa có bộ quy trình chuẩn, nếu có cũng thiếu những người đào tạo bài bản, không có người giám sát dẫn đến chất lượng không ổn định. “Khi nhân lực yếu mà hệ thống giám sát, kiểm soát không chặt chẽ, chất lượng dịch vụ trở nên thiếu ổn định”, ông Nguyễn Quang nói thêm.
Ông Nguyễn Hữu Thọ – chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam – cũng thừa nhận ngành lưu trú đối mặt với nhiều thách thức, trong đó là nỗ lực tăng chỉ số sự hài lòng của du khách đến Việt Nam. Dù ngành du lịch Việt Nam tăng cường sự hiện diện thông qua các kênh truyền thông, nâng cao chất lượng du lịch, ứng dụng công nghệ số… nhưng nhân sự vẫn là bài toán then chốt, đặc biệt du lịch Việt Nam tăng trưởng cao trong những năm gần đây.
Năm 2019, ngành du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đón tiếp 18 triệu lượt khách quốc tế, nhiều cơ sở lưu trú lớn, đạt tiêu chuẩn khách sạn 5 sao cũng được đưa vào hoạt động, góp phần làm cho số lượng phòng tăng đáng kể.
“Nhiều khách sạn duy trì được thương hiệu và đẳng cấp quốc tế, không ít khách sạn được tổ chức quốc tế vinh danh. Nhưng nếu nói về sự tinh tế, chuyên nghiệp thì chúng ta vẫn còn thiếu, bắt nguồn từ việc thiếu nhân lực có tay nghề cao”, ông Thọ nói thêm.
Video đang HOT
Đào tạo theo đơn đặt hàng
Cùng ngày, tại ngày hội tuyển dụng JobFair do Trường cao đẳng quốc tế Kent, một thành viên của Vietravel, tổ chức ở TP.HCM, bạn Thùy Anh (25 tuổi, ngụ TP.HCM) cho biết khá bất ngờ vì các câu hỏi của nhà tuyển dụng đều không liên quan đến bằng cấp, chuyên ngành mà tập trung vào phát triển cá nhân, tính cách và kỹ năng sống.
“Có nhà tuyển dụng đưa ra tình huống mà du khách gặp khó và yêu cầu tôi xử lý. Họ còn hỏi kế hoạch 5 năm tới của tôi là gì”, Thùy Anh chia sẻ.
Theo bà Thái Thị Phương Hòa – phó tổng giám đốc Trường cao đẳng quốc tế Kent, sản phẩm dịch vụ là một rào cản đáng kể của hầu hết nhân sự mới. Để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, yêu cầu đầu tiên mà các doanh nghiệp du lịch đưa ra là ngoại ngữ, tiếp đến là kỹ năng chăm sóc khách hàng. Đây là những yếu tố chỉ có được dựa trên chương trình học gắn với thực tế.
“Nhân sự ngành du lịch Việt Nam vẫn chưa được đào tạo bài bản chuyên sâu như trong quản trị khách sạn, hướng dẫn viên du lịch quốc tế hoặc chưa có bằng cấp được quốc tế công nhận. Do đó, hơn 50% thời lượng trong chương trình đào tạo của chúng tôi là thực hành, làm việc tại các doanh nghiệp chứ không chỉ đào tạo chuyên môn sâu. Khi ra trường, sinh viên đã có kinh nghiệm nên hoàn toàn bắt nhịp được với công việc…”, bà Hòa nói.
Trong ngày hội JobFair năm nay, các doanh nghiệp mang đến hơn 100 vị trí tuyển dụng từ cấp quản lý đến nhân viên, ngành nghề đa dạng, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn như Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), Vietnam Airlines (VNA), Jetstar Pacific, TECS, NTCS, Bamboo Airways…
Ước tính có hơn 20 doanh nghiệp hàng đầu trong nước và quốc tế tham gia, trong đó hơn 50% là các doanh nghiệp nằm trong hệ sinh thái ngành du lịch như các hãng hàng không, tập đoàn khách sạn…
Một trong những mục tiêu của ngày hội là kết nối sinh viên các trường đại học đang theo mong muốn tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp tốt hơn. Thông qua ngày hội tuyển dụng này, các doanh nghiệp, trường học cũng đã ký cam kết ưu tiên tuyển dụng, trong đó liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng đảm bảo các chương trình giảng dạy bám sát thực tế, chuẩn quốc tế, tập trung các kỹ năng mềm như làm việc theo nhóm, kỹ năng thuyết trình, thích nghi với công việc…
Thiếu nhân sự, ứng dụng công nghệ gặp khó
Theo bà Đỗ Thị Hồng Xoan – chủ tịch Hiệp hội Khách sạn Việt Nam, tính đến hết năm 2018 cả nước có 28.000 cơ sở lưu trú với 556.000 buồng, tăng 9,3% lượng cơ sở lưu trú, 9,4% lượng buồng so với năm 2017. Trong đó, hiện có 145 khách sạn 5 sao với hơn 47.100 buồng trên toàn quốc.
Tuy vậy, chất lượng nhân sự chưa theo kịp tốc độ phát triển của ngành du lịch, sự thiếu hụt nguồn nhân lực tay nghề cao dẫn đến sự hài lòng của khách hàng chưa nhiều. Ngoài ra, các khách sạn cũng đối mặt với thách thức ứng dụng công nghệ cao, hạn chế về giải pháp công nghệ do sự thiếu hụt nhân lực lẫn tài lực.
Theo tuoitre
Mong ngóng đợi chờ
Trong một xã hội bình thường, tất cả mọi người từ trẻ đến già, từ người nghèo đến người giầu ai ai cũng phải mong ngóng đợi chờ.
"Mong ngóng đợi chờ" là một cụm từ rất kỳ lạ, nếu tách riêng từng từ ra như: mong, ngóng, đợi, chờ thì mỗi từ lại có một nghĩa rất đặc sắc. Nếu ghép 2 từ một như: mong đợi, ngóng chờ, đợi chờ, chờ đợi, mong ngóng, mong đợi, mong chờ, ngóng đợi... thì mỗi cụm từ lại có một nghĩa riêng. Đành phải dựa vào Từ điển tiếng Việt để tạm khu trú lại ý nghĩa của nó cho tập trung.
Theo Từ điển tiếng Việt, tại trang 572 thì: "Mong là: 1/ Ở trạng thái trông ngóng chờ đợi điều gì, việc gì sẽ xẩy ra. Thí dụ: Mong cho chóng đến Tết. Hạn hán mong mưa. "Biết đâu Hợp Phố mà mong Châu về" (Nguyễn Du). 2/ Có nguyện vọng rằng, ước muốn rằng (không có chủ ngữ). Thí dụ: Mong anh thông cảm. Mong được gặp lại. 3/ Có thể được hy vọng (không có chủ ngữ). Thí dụ: Phải nỗ lực nhiều mới mong có kết quả".
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, trang 622 thì: "Ngóng là trông chờ, mong đợi một cách bồn chồn không yên, thường biểu lộ qua thái độ, cử chỉ. Thí dụ: Ra ngõ ngóng con. Ngóng chờ bưu phẩm gửi tới".
Ở trang 157 thì: "Chờ là ở trong trạng thái đang mong ngóng ai hoặc chờ cái gì sẽ tới, sẽ xảy ra. Thí dụ: Chờ khách, chờ tin. "Sông sâu cá lặn mất tăm/ Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ" (Nguyễn Du).
Mong ngóng đợi chờ trong văn chương:
Con người ta thường hay mơ tưởng hão huyền, cái nhu cầu thật thì ít nhưng lúc nào cũng mong chờ một cái gì đó to hơn, nhiều hơn, hóa ra lại thành không tưởng, không đạt tới được, đâm ra buồn bã, thất vọng. Nhà triết học người Thụy Sỹ Johann Caspar Lavater (1741-1801) đã đúc kết cái ham muốn, thèm khát của con người bao giờ cũng vượt quá cái nhu cầu thật, cái mong ước thông thường khi ông viết thành một danh ngôn để đời: "Những mong muốn thật sự của ta thì ít, nhưng cái mơ tưởng khát khao thì lại bao la quá" (How few our real wants and how vast our imaginary ones). Chính cái mơ tưởng viển vông, thiếu thực tế, hão huyền của con người làm người ta mất sức lực, mất tiền của, mất thì giờ mà chẳng đi đến đâu, lại quay về số "O" tròn trĩnh.
Nhà thơ Chế Lan Viên có một câu rất hay: "Giấc mơ con đè nát cuộc đời con".
Vậy người tỉnh táo, người khôn ngoan nên "liệu cơm gắp mắm", phải dựa vào sức mình, hoàn cảnh và khả năng có thật của mình mà lên kế hoạch, mà định liệu cho tương lai, cho công việc trước mắt sao cho hợp lý nhất, khả thi nhất.
Một thành ngữ cổ của Pháp rất dễ hiểu nhưng rất thực tế là: "Khi người ta muốn đi tắm, chẳng ai lại ra chỗ xay gạo làm gì" (Quand on veut allez au bains, on ne va pas au moulin). Ấy thế mà trên thực tế cuộc sống rất nhiều cuộc đời trở nên dang dở, trở nên ế ẩm, trở nên "quá đát" chỉ vì không phân biệt được chỗ nào để tắm và chỗ nào để xay gạo. Ấy thế mà trên thực tế cuộc sống đã có rất nhiều câu chuyện "bán bò đi tậu ễnh ương", nhất là trong thời buổi ảo thực, thực ảo của công nghệ thông tin, của internet, của tình yêu ảo, nhà đất ảo, tương lai ảo, trí tuệ ảo, tài chính ảo, tài nguyên ảo, tài năng ảo. Vì thế, đối với những người sống hiền lành, lương thiện, suốt đời chỉ phấn đấu để có một công ăn việc làm ổn định, với một hạnh phúc đơn sơ, với một ước mơ nho nhỏ thì suốt đời suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió vì họ áp dụng đúng theo lời khuyên của những người Pháp cổ là: "Người ta chỉ đạt được nguyện vọng khi người ta có thể chứ không thể đạt được những gì người ta mong muốn" (Qui ne veut quand il peut, ne peut quand il veut). Câu ngạn ngữ này cũng gần giống với câu "lắm mối tối nằm không" để chỉ những ai có nhiều người làm mối quá, nhiều người theo đuổi quá, nên phải kén chọn để tìm "người lý tưởng" nhưng chẳng thấy đâu, nên mãi cũng không lấy được vợ, không lấy được chồng.
Bàn về "mong ngóng đợi chờ" thì có nhiều luồng tư tưởng khác nhau, luồng tương đối phổ biến là yên phận, chí thú làm ăn, năng nhặt chặt bị, mèo nhỏ bắt chuột con, liệu cơm gắp mắm, ăn trông nồi ngồi trông hướng, không mơ tưởng hão huyền, không a dua theo người khác để đuổi theo một đám sương khói ảo ảnh xa mịt mờ. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo của nhà triết học La Boulaye: "Kẻ nào không mơ ước hão huyền thì luôn được thênh thang" (He who desires naught will always be free). Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo của nhà triết học cổ đại Terentius (năm 190 đến năm 159 trước Công nguyên) khi ông viết thành một danh ngôn để lại cho nhân loại hàng ngàn năm sau một hướng đi đúng đắn, thiết thực trong cuộc sống nhân sinh: "Vì không thể làm những gì anh ao ước, anh nên ao ước những gì anh có thể làm" (As you cannot do what you wish, you should wish what you can do). Mãi mãi biết ơn Terentius vì ông đã tháo gỡ bế tắc cho con người trong cái vòng xoắn luẩn quẩn "mong ngóng đợi chờ" để có một lối ra, để có một hướng đi nhẹ nhàng thanh thản cho cuộc sống vốn đã rất nhiều vất vả gian nan.
Mong ngóng đợi chờ trong cuộc sống đời thường:
- Xuân và Na yêu nhau từ hồi học phổ thông. Vì hoàn cảnh gia đình Xuân ở lại quê làm nông nghiệp, còn Na đi học Đại học ở Hà Nội. Na khuyên Xuân đừng vội vàng nghĩ đến chuyện cưới xin, phải biết kiên trì đợi chờ, khi Na tốt nghiệp xong, có công ăn việc làm ổn định cưới nhau cũng có gì là muộn. Thế là hàng tháng Xuân vẫn gửi tiền cho Na chi tiêu, học hành, vẫn kiên trì "trồng cây đợi đến ngày ăn quả". Trong bốn năm học Đại học, Na đã thông tỏ mọi ngõ ngách của cuộc sống thành phố, đã học được cách ăn chơi đua đòi, đã học được cách sống gấp của thời đại Công nghệ, của một xã hội tiêu thụ. Những năm cuối, Na cố tình tránh mặt Xuân và cũng chẳng cần mấy đồng bạc chắt bóp của mối tình quê nghèo khổ. Na đã có đại gia bao. Chẳng cần đợi tốt nghiệp, Na đã nhận lời đại gia làm đám cưới và làm chủ một cửa hàng vật tư nông nghiệp phân phối cho một vùng dân cư rộng lớn. Ở quê nhà, sau khi biết Na đã lấy chồng, Xuân đã xây dựng gia đình với một cô xã viên, yên lòng chăm lo sản xuất. Thời gian cứ trôi đi. Một buổi chiều muộn, người ta thấy Na ăn mặc lôi thôi, tay dắt một đứa trẻ đi nhanh về nhà bố mẹ đẻ. Thì ra, đại gia chồng Na buôn bán vật tư giả, kém chất lượng lại trốn thuế đã phải đi tù, gia sản bị tịch thu, mẹ con Na trở nên trắng tay, đành phải về quê ăn bám bố mẹ.
Ai biết câu chuyện Xuân và Na cũng đều mừng thầm cho Xuân, may mà cái "mong ngóng đợi chờ" của anh đã thất bại, chứ nếu thành công thì chưa biết cuộc đời anh bây giờ sẽ ra sao? Bạn bè trong thôn, trong xóm cũng thì thào với nhau: "Cứ nhìn cái gương Xuân và Na, thôi ta cứ làm nông nghiệp chỉ cốt cần cù, chịu khó vẫn có tương lai, vẫn có hạnh phúc, chứ "cuộc thí nghiệm tuổi xuân" của Na cho các ảo tưởng hão huyền, muốn giầu nhanh mà làm ăn bất chính thì ắt phải gánh lấy hậu quả đau đớn". Đó là "quy luật nhân quả" rất khoa học và rất đời thường!
- Trong một cuộc thi "hoa hậu" cấp thành phố, đến phần thi ứng xử, giám khảo nêu câu hỏi: "Em có mong muốn đợi chờ gì cho tương lai? ". Thí sinh đáp: "Em muốn luôn luôn xinh đẹp để hấp dẫn mọi người". Giám khảo lại hỏi: "Giữa sắc đẹp và đạo đức, nết na thì em chọn cái nào? ". Trả lời: "Em chọn sắc đẹp, vì sắc đẹp là trời cho mới được, còn đạo đức thì có thể học hỏi được, rèn luyện được". Lại hỏi: "Em có nhận xét gì về câu "Cái nết đánh chết cái đẹp" của các cụ ta để lại?" . Trả lời: "Em thấy câu này không đúng, vì cái đẹp có tội gì đâu mà đánh chết nó". Những người có học thức và có giáo dục ngồi dự cuộc thi đều lặng lẽ trầm ngâm !
- Tại buổi liên hoan mừng các em học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học ở một trường nọ, người ta tổ chức cuộc thi "Đố vui có thưởng". Giám khảo đưa ra câu hỏi: "Sau này em mong ước được làm việc gì?". Có nhiều câu trả lời: Bác sĩ, kỹ sư, giáo viên... Nhưng kỳ quặc nhất, gây chú ý nhiều nhất là câu trả lời: "Em muốn làm bất cứ nghề gì miễn là có thể kiếm được nhiều tiền". Những người ngồi dưới có người vỗ tay tán thưởng, nhưng các thầy cô và nhiều phụ huynh học sinh im lặng, buồn bã!
Thì ra "mong ngóng đợi chờ" cũng như bữa cơm hàng ngày, nếu chỉ có những bữa cơm đạm bạc chủ yếu là rau dưa thì lâu bền vững chắc, nuôi sống con người hàng vạn năm nay. Còn nếu thêm nhiều cá, nhiều thịt thì cũng nên thận trọng, vì có người bị hóc xương cá, bị hóc xương gà, gây đau đớn khốn khổ, có khi còn thiệt đến thân!
Trần Hữu Thăng
Theo daidoanket.vn
Tuyển sinh 2019: Ngành nào đang 'khát' nhân lực? Thông tin được rất nhiều học sinh tham gia ngày hội tư vấn Tuyển sinh 2019 ngày 17/3 - sự kiện thường niên do báo Tuổi trẻ phối hợp với ĐH Bách khoa Hà Nội tổ chức, chính là ngành nào đang thiếu nhân lực. Câu chuyện về chọn nghề được nhiều chuyên gia "gỡ rôi" tích cực cho ứng viên trong ngày...