Du lịch cần “sống chung” với Covid-19
Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, các doanh nghiệp du lịch không thể “án binh bất động” chờ dịch kết thúc, mà phải chấp nhận “sống chung” với dịch bằng cách thay đổi mô hình, sản phẩm, cách thức hoạt động sao cho phù hợp. Đó là quan điểm của ông NGUYỄN TIẾN ĐẠT, Giám đốc Công ty Du lịch AZA Travel, khi trao đổi với ĐTTC.
Một góc bãi biển Nha Trang.
PHÓNG VIÊN: – Ông đánh giá thế nào về thực trạng ngành du lịch hiện nay và khả năng phục hồi trước ảnh hưởng của dịch Covid-19?
Ông NGUYỄN TIẾN ĐẠT: - Dịch Covid-19 bùng phát thời gian qua được ví như “cú đánh bồi” vào ngành du lịch vốn dĩ đã khó khăn từ nhiều tháng trước đó. Hiện tại, những doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch đang gặp rất nhiều khó khăn.
Những doanh nghiệp lớn còn may mắn trụ lại được nhưng vẫn không thể hoạt động, trong khi doanh nghiệp nhỏ lẻ và ít vốn gần như đã phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động ngay từ trong quý II-2020.
Doanh thu của các doanh nghiệp du lịch chủ yếu đến từ 3 nguồn là du lịch nội địa, du lịch lữ hành đưa khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài và hoạt động lữ hành đón khách nước ngoài đến Việt Nam.
Tuy nhiên, kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát cả 3 hoạt động này đều bị đóng băng, doanh nghiệp không còn nguồn thu. Cách đây hơn 1 tháng, Chính phủ công bố tạm thời kiểm soát được dịch và cho phép mở lại du lịch nội địa, song chỉ thời gian ngắn dịch đã bùng phát trở lại, hoạt động này lại tạm ngưng, chưa rõ khi nào mới mở lại.
Thực tế, du lịch nội địa có nguồn thu rất ít, không đáng kể so với du lịch nước ngoài, song có thể xem là giải pháp tạm thời để các doanh nghiệp có thể hoạt động cầm chừng nhằm duy trì.
Đơn cử, công ty chúng tôi, doanh thu từ hoạt động du lịch không có, trong khi vẫn nợ ngân hàng và vẫn phải trả lãi hàng tháng, chưa kể còn khoản chi phí đã tạm đóng cho các công ty hàng không trước đó hàng tỷ đồng cho hoạt động du lịch lữ hành quốc tế, đến nay vẫn không thể lấy lại được số vốn trên.
Video đang HOT
Về khả năng phục hồi của ngành du lịch, tôi cho rằng phụ thuộc rất nhiều vào việc kiểm soát được dịch bệnh. Kiểm soát được dịch bệnh hay không lại phụ thuộc vào việc chế tạo thành công vaccine khi nào. Nhưng ngay cả khi các nước trên thế giới tìm ra vaccine cho đến lúc có thể sử dụng đại trà, thời gian vẫn kéo dài 1-2 năm nữa.
Do đó, thời gian tới vẫn là thử thách khốc liệt với doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch, chắc chắn số doanh nghiệp phá sản còn tăng thêm, hoạt động của ngành khó phục hồi tăng trưởng như thời kỳ trước dịch Covid-19.
- Những chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp du lịch, thời gian qua đã phát huy tác dụng, thưa ông?
- Tôi cho rằng những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ trong thời gian qua là cần thiết, song tính hiệu quả như thế nào có lẽ vẫn còn phải nói đến rất nhiều.
Về các gói hỗ trợ cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp, hiện nay nhiều doanh nghiệp du lịch vẫn chưa thể tiếp cận được. Như công ty chúng tôi cũng vẫn chưa thể vay được đồng nào từ nguồn vốn này.
Trong khi đó, việc miễn giảm thuế thực sự cũng không có nhiều tác dụng. Bởi lẽ từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, hoạt động du lịch bị ngưng trệ, doanh nghiệp không có doanh thu, việc không phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp là hiển nhiên, không thể xem đó là ưu đãi được.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận các gói tín dụng khác của ngân hàng cũng rất khó khăn. Do doanh nghiệp du lịch gặp khó trong kinh doanh, nên ngân hàng dè dặt cho vay vì sợ phát sinh nợ xấu.
Do đó, tôi cho rằng chính sách hỗ trợ của Chính phủ cần phải “sát sườn” với doanh nghiệp du lịch hơn. Thí dụ, có thể xây dựng quỹ hỗ trợ doanh nghiệp được trích ra từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp được vay trực tiếp từ quỹ này để tái đầu tư kinh doanh.
- Sau khi dịch Covid-19 bùng phát trở lại ở một số địa phương, hoạt động du lịch nội địa lại bị tạm ngưng. Có ý kiến cho rằng nên duy trì hoạt động này trên cơ sở tăng cường kiểm soát an toàn dịch bệnh. Ý kiến của ông về vấn đề này?
Cách tốt nhất để tự cứu mình lúc này, là du lịch phải chấp nhận “sống chung” với dịch Covid-19. “Sống chung” ở đây là vừa duy trì hoạt động của mình để có doanh thu, vừa có các biện pháp kiểm soát để đảm bảo an toàn cho khách.
- Tôi cho rằng vẫn nên duy trì hoạt động du lịch nội địa, vì đây là cách tốt nhất để doanh nghiệp du lịch có thể ít nhiều “tự cứu mình”. Vấn đề dịch Covid-19 bùng phát trở lại gần đây, theo tôi do khâu kiểm soát đầu vào từ biên giới chưa được tốt.
Thêm vào đó, nếu buộc phải giãn cách xã hội tạm thời cũng nên giãn cách theo phương thức khoanh vùng, không nên tạm ngưng mọi hoạt động ở các địa phương khác, bởi điều này là không cần thiết.
Hơn nữa, vì diễn biến của dịch Covid-19 còn rất phức tạp, chưa rõ khi nào mới có thể kiểm soát được, do đó cách tốt nhất lúc này là du lịch phải chấp nhận “sống chung” với dịch Covid-19. “Sống chung” ở đây là vừa duy trì hoạt động của mình để có doanh thu, vừa có các biện pháp kiểm soát để đảm bảo an toàn cho khách.
Hiện các doanh nghiệp du lịch bắt buộc phải chuyển đổi mô hình cũng như cách thức hoạt động. Nếu trước đây du lịch thường tổ chức theo các đoàn đông người và tập trung số lượng lớn ở các địa điểm du lịch, nay có thể tổ chức theo quy mô hộ gia đình với hình thức du lịch nghỉ dưỡng ngắn ngày như homestay, farmstay…
Như vậy, vừa đáp ứng được nhu cầu của khách, doanh nghiệp vẫn có doanh thu, đủ sức cầm cự trong thời gian dịch bệnh chưa kết thúc. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc cắt giảm chi phí, nhân lực. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số như thực tế ảo chưa nhiều doanh nghiệp thực hiện bởi chi phí cho việc này không rẻ.
Còn nhân sự trong ngành du lịch từ đầu năm đến nay đã bị cắt giảm khá nhiều. Điều này gây khó khăn cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động. Người lao động mất việc làm, còn doanh nghiệp sau này muốn phục hồi hoạt động sẽ rất khó khăn do thiếu nhân lực.
- Xin cảm ơn ông.
Chính sách hỗ trợ vẫn theo hàng 2
Trước tác động của dịch Covid-19, ngành NH đã chủ động thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp (DN), hộ kinh doanh và người dân duy trì, ổn định và phục hồi sản xuất kinh doanh, thông qua Thông tư 01/2020 của NHNN. Tuy vậy, việc hỗ trợ vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của DN, nhất là DNNVV, do các nhà băng dựa trên những tiêu chí NHNN quy định, đặc biệt không được hạ chuẩn tín dụng.
Đo thiệt hại như thế nào để được hỗ trợ?
90% DN ngành da giày TPHCM không tiếp cận được chính sách hỗ trợ của Chính phủ vì thủ tục phức tạp. Đó là chia sẻ của đại diện Hội Da giày TPHCM. Còn theo số liệu của NHNN chi nhánh TPHCM, ngoài những trường hợp được NH hỗ trợ cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, cho vay theo Thông tư 01, đơn vị này cũng tiếp nhận 704 trường hợp gửi phản ánh qua các sở ngành, quận huyện và hiệp hội DN, kiến nghị được tháo gỡ khó khăn. Theo đó, có 165 trường hợp đang xử lý và 539 trường hợp đã có kết quả xử lý.
Ngành NH sẽ hỗ trợ DN nếu có nhiều chính sách đồng bộ đi cùng với chính sách tín dụng, như bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ DNNVV, thuế, bảo hiểm...
Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN
Trong 539 DN trên chỉ 65 trường hợp được giảm lãi 0,2-2%/năm, 14 DN được cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, 32 DN được vay mới, 3 trường hợp được tăng hạn mức tín dụng, 2 DN được giảm phí dịch vụ, 7 DN được hỗ trợ nhiều hình thức (tăng hạn mức, giảm lãi, cơ cấu lại nợ...).
Còn lại 166 DN được tư vấn hướng dẫn, 86 DN chưa có/không còn nhu cầu hỗ trợ, 49 DN không đủ điều kiện vay vốn hoặc không thuộc nhóm khách hàng mục tiêu của NH, 4 trường hợp không đủ điều kiện cơ cấu nợ hoặc giảm lãi, 10 trường hợp không có dư nợ tại NH... Như vậy, dù ngành NH đã tích cực hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, nhưng vẫn còn nhiều DN có nhu cầu chưa được xếp vào diện được hỗ trợ.
Theo ông Nguyễn Phước Hưng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội DN TPHCM, đến nay các DN cơ bản đã nối lại được nguồn nguyên liệu nhưng chưa xuất khẩu được do các nước chưa khống chế được dịch bệnh. Đường hàng không quốc tế chưa nối lại nên DN kinh doanh trong lĩnh vực du lịch lữ hành, ăn uống phục vụ khách du lịch nước ngoài vẫn đóng cửa.
Nhiều DN đang nỗ lực gượng dậy, phục hồi sản xuất kinh doanh sau khi được NH trợ giúp khoanh nợ, giảm nợ, giảm lãi suất, không chuyển nhóm nợ, cho vay mới với lãi suất thấp, cho vay với lãi suất 0% để trả lương, giữ chân người lao động. Nhưng để tiếp cận được chính sách hỗ trợ, DN phải có thị trường xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu, có xếp hạng tín dụng tốt qua nhiều kỳ liên tiếp, tình hình tài chính ổn định, lịch sử vay trả đúng hạn, là khách hàng truyền thống và có giao dịch tín dụng liên tục với NH trong thời gian nhất định...
Đặc biệt, thủ tục yêu cầu DN phải chứng minh được thiệt hại 50%, trong khi không có tiêu chí cụ thể nào để đo được thiệt hại này. Chính vì vậy lượng DN đủ điều kiện để được hỗ trợ còn ít.
"Ngành NH nên tăng cường đẩy mạnh các chính sách giãn nợ, cơ cấu nợ, giảm lãi suất cho vay hơn nữa, cũng như tăng cường cho vay lưu động ngắn hạn và cho vay trung dài hạn với lãi suất thấp, giúp DN có cơ hội đầu tư, tái cơ cấu sản xuất. Những trường hợp ít thiệt hại hơn cũng cần được xem xét hỗ trợ hưởng chính sách vượt qua khó khăn để có cơ hội hồi phục tốt hơn" - ông Hưng nói.
Chờ quyết sách của Chính phủ
Trong nhiều hội nghị diễn ra gần đây, NHNN khẳng định dịch bệnh khiến nền kinh tế khó khăn và DN khó khăn, vì vậy có những khoản phải khoanh nợ, để DN được vay khoản mới duy trì sản xuất, chờ thế giới mở cửa sẽ xuất khẩu, không thể buộc DN trả nợ cũ mới cho vay. Nhưng hỗ trợ phải theo nguyên tắc thị trường, không giảm chuẩn tín dụng, tránh để lại hệ lụy nợ xấu. Thông tư 01 sử dụng chính nguồn lực của TCTD chia sẻ với DN với tính chất đồng hành, không phải nguồn lực ngân sách. Vì vậy, hỗ trợ DN không thể thực hiện ồ ạt. NH rất muốn hỗ trợ DNNVV, vì nhóm này đóng góp GDP lớn, nhưng năng lực tài chính nhiều DN yếu, không có tài sản thế chấp, NH không thể kiểm soát được dòng tiền nên hỗ trợ còn hạn chế.
Phó tổng giám đốc một NHTMCP cũng cho biết, dư nợ khách hàng đăng ký hỗ trợ theo Thông tư 01 trên 20.000 tỷ đồng, nhưng NH chỉ đáp ứng được khoảng 10.000 tỷ đồng. Tiêu chí hỗ trợ dựa trên mức độ thiệt hại và điều kiện cơ cấu. Có DN bị tác động không lớn, có thể tự thu xếp, NH động viên DN cố gắng để dành nguồn lực cho DN khó khăn hơn. Bởi lẽ, ngoài việc NHNN yêu cầu không được hạ chuẩn tín dụng, việc cơ cấu nợ cũng ảnh hưởng đến nguồn thu nhập, lợi nhuận của NH.
Theo một chuyên gia kinh tế, trong điều kiện hiện nay nợ xấu sẽ tăng do cả NH và DN đều bất ngờ trước dịch bệnh. Nhưng nếu sốt ruột phục hồi nền kinh tế thông qua việc đẩy mạnh hỗ trợ hay bơm nhiều vốn giá rẻ và dễ dãi trong quản lý, giám sát khoản vốn, sẽ dẫn tới hệ lụy nợ xấu tăng mạnh, trở thành gánh nặng cho phục hồi kinh tế sau này. Vì vậy, NH không hạ chuẩn tín dụng, hỗ trợ tràn lan là đúng. Vậy giải pháp nào cho vấn đề này?
Ông Nguyễn Hoàng Dũng, Phó Tổng giám đốc VietinBank, cho biết các nước hiện đang tăng đầu tư ngân sách vào quỹ bảo lãnh tín dụng rất lớn để bảo lãnh DN vay vốn NH. Đây là hướng đi được nhiều chuyên gia đề xuất thông qua các trao đổi với ĐTTC gần đây. Tuy nhiên, muốn mở hướng đi này phải trông chờ vào quyết sách của Chính phủ đối với các quỹ bảo lãnh tín dụng. Nếu có sự đầu tư đúng mức cho các quỹ này, các DN, đặc biệt là DNNVV sẽ có nhiều cơ hội phục hồi và phát triển.
Kích cầu du lịch "hâm nóng" thị trường bất động sản nghỉ dưỡng Phân khúc bất động sản nghỉ dưỡng đang "nóng" dần lên nhờ những chương trình kích cầu du lịch nội địa, tín hiệu tích cực từ các khu nghỉ dưỡng, khách sạn mở cửa trở lại sau những ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19. Nhiều chương trình kích cầu du lịch nội địa được tung ra Theo kết quả khảo sát...