Dự báo về xu thế dịch COVID-19 trên thế giới 6 tháng tới
Cuộc chạy đua giữa tiêm chủng và biến thể Delta sẽ chưa chấm dứt, chừng nào COVID-19 còn là mối đe dọa.
Người dân sử dụng dịch vụ tàu điện ngầm tại thủ đô London, Anh. Ảnh: Getty Images
Với những ai kỳ vọng vào ánh sáng cuối đường hầm COVID-19 trong từ 3 đến 6 tháng tới, họ sẽ phải đón nhận thông tin không mấy tốt lành từ các nhà khoa học: Hãy chuẩn bị đối phó với dịch bệnh ở cấp độ lớn hơn những gì đã diễn ra. Bùng phát dịch sẽ khiến trường học đóng cửa. Những công dân sống trong trại dưỡng lão sẽ đối diện với lo sợ lây nhiễm quay trở lại. Người lao động sẽ buộc phải cân nhắc nguy cơ khi trở lại làm việc trong bối cảnh bệnh viện trở nên quá tải.
Giới chuyên gia nhìn nhận dịch bệnh chấm dứt chỉ sau khi tất cả công dân đều thuộc diện hoặc đã nhiễm bệnh, hoặc được tiêm đủ liều vaccine. Ngay cả trong trường hợp này vẫn sẽ có một số ít người không may mắn tái nhiễm.
“Tôi cho rằng lây nhiễm đang diễn ra trên thế giới. Rồi xu hướng sẽ lắng dịu. Nhưng tiếp đó tôi nghĩ rằng chúng ta rất dễ phải chứng kiến bùng phát mới vào mùa thu và mùa đông này”, Michael Osterholm, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Bệnh truyền nhiễm tại Đại học Minnesota (Mỹ) nhận định.
Khi hàng tỉ người trên thế giới chưa được tiếp cận vaccine và ít có cơ hội để loại trừ virus, thế giới trong vài tháng tới có thể sẽ phải đối diện với các ổ dịch trong lớp học, trên các phương tiện công cộng và nơi làm việc, khi các nước quyết tâm đẩy nhanh tiến độ mở cửa nền kinh tế. Ngay cả khi tỉ lệ tiêm chủng tăng nhanh, vẫn sẽ nhóm người thuộc diện dễ bị tổn thương trước virus. Đó là trẻ sơ sinh, người không thể tiêm vaccine hoặc không muốn tiêm vaccine, người đã tiêm nhưng lại rơi vào nhiễm đột phá do suy giảm lớp bảo vệ.
Khách hàng trình chứng nhận tiêm chủng vaccine trước khi được vào một quán bar ở San Francisco, Mỹ. Ảnh: Bloomberg
Vài tháng tới sẽ là khoảng thời gian khó khăn. Theo Osterholm, một vài năm tới sẽ là chu kỳ lên xuống của dịch bệnh gắn với thời gian cần thiết để tăng độ che phủ toàn diện của vaccine. Thách thức nằm ở chỗ dịch sẽ ở các mức đỉnh và đáy nào, quãng thời gian tạo đỉnh, rồi đáy và ngược lại sẽ dài bao lâu. “Chúng ta không biết, nhưng tôi có thể nói rằng lây nhiễm virus kiểu cháy rừng sẽ không ngừng lại chừng nào virus vẫn còn tìm thấy đối tượng phù hợp để tấn công và gây cháy”, ông Osterholm nhận định.
COVID-19 trong tương quan so sánh với các đại dịch khác
Video đang HOT
Theo Lone Simonsen, chuyên gia dịch tễ và là giáo sư chuyên ngành khoa học sức khỏe dân số tại Đại học Roskilde (Đan Mạch), việc nghiên cứu 5 đại dịch cúm được ghi nhận trên thế giới trong 130 năm qua có thể giúp đưa ra dự báo về xu hướng phát triển của COVID-19. Đại dịch cúm kéo dài nhất là 5 năm, nhưng về cơ bản 5 đợt dịch này thường có từ 2 đến 4 làn sóng lây nhiễm trong khoảng từ 2-3 năm. COVID-19 đang dần trở thành đại dịch nghiêm trọng hơn, khi mới chỉ ở năm thứ hai nhưng đã đẩy thế giới vào giữa làn sóng lây nhiễm thứ 3 và chưa thấy lối thoát.
Rất có thể virus SARS-CoV-2 sẽ không đi theo con đường, cách thức mà các chủng virus từng gây ra đại dịch trong quá khứ. Đáng chú ý, đây lại là loại virus dễ lây lan hơn. Với hơn 4,6 triệu người tử vong tính kể từ thời điểm đại dịch COVID-19 bùng phát, SARS-CoV-2 có mức độ “chết chóc” gấp hai lần so với đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Một nạn nhân tử vong vì COVID-19 được đưa đi an táng tại nghĩa trang Fairy Park, vùng, Meru, bang Selangor, Malaysia. Ảnh: Bloomberg
Đã từng bị sóng COVID-19 tấn công và đều thuộc nhóm có tỉ lệ tiêm chủng vaccine cao, nhưng Mỹ, Anh, Nga và Israel vẫn đang ghi nhận số ca mắc kỉ lục. Tiêm chủng giúp giảm nguy cơ tử vong, diễn tiến bệnh nặng. Nhưng bùng phát lây nhiễm đồng nghĩa với việc virus tấn công vào nhóm người trẻ và người chưa được tiêm vaccine, làm gia tăng số lượng các ca bệnh nặng ở nhóm đối tượng này. Khi virus còn lây lan vượt tầm kiểm soát ở nhiều khu vực trên thế giới, rất có thể một biến thể khác sẽ xuất hiện.
Lịch sử cho thấy mọi người thường có quan điểm virus sẽ tự động giảm độc lực theo thời gian, để tránh việc tiêu diệt hết dân số vật chủ. Nhưng đây là quan niệm sai lầm – chuyên gia Lone Simonsen nêu quan điểm. Biến chủng mới không hẳn lúc nào cũng nguy hiểm hơn so với chủng cũ. Nhưng đại dịch trên thực tế sẽ nghiêm trọng, chết chóc hơn trong giai đoạn lây lan, bùng phát, khi virus tìm cách thích ứng, xâm nhập vật chủ mới.
Dự đoán khi nào COVID-19 sẽ chấm dứt?
Đại dịch COVID-19 sẽ không kết thúc trong 6 tháng tới, đó là điều dễ nhận thấy. Giới chuyên gia về cơ bản đều đồng thuận rằng dịch bệnh sẽ được chế ngự, kiểm soát khi có khoảng 90-95% dân số toàn cầu đạt miễn dịch – có thể thông qua tiêm chủng hay đã từng nhiễm SARS-CoV-2 trước đó. Chìa khóa then chốt vẫn phải là tiêm chủng, bởi “nếu không có tiêm chủng, con người dễ bị tổn thương, bởi virus sẽ lây lan rộng và tấn công ngay trong mùa thu và mùa đông này”, Simonsen nói.
Theo dữ liệu thống kê của Bloomberg, đã có hơn 5,66 tỉ liều vaccine được đưa vào tiêm chủng trên toàn thế giới. Nhưng chiến dịch tiêm chủng mới chỉ thành công ở một vài nhóm nước, như châu Âu, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Những nơi khác mức độ bao phủ vaccine rất hạn chế. Đa phần các nước châu Phi mới chỉ tiếp cận được lượng vaccine đủ tiêm cho 5% dân số ở mức hai liều tiêm. Ấn Độ cũng mới tiêm được cho khoảng 26% dân số.
Một thợ mỏ được tiêm chủng vaccine ở Amandelbult, Nam Phi. Ảnh: Bloomberg
Theo Erica Charters, giáo sư chuyên ngành lịch sử y khoa, đại dịch sẽ chấm dứt ở từng nơi vào những thời điểm khác nhau – như những gì đã diễn ra trong quá khứ. Chính phủ các nước sẽ phải đưa ra quyết định sẵn sàng sống chung được với dịch bệnh ở cấp độ nào. Cách tiếp cận cũng khác nhau. Dù một số vẫn theo đuổi chiến lược “không COVID-19″, nhưng thế giới gần như chắc chắn sẽ không thể loại bỏ hoàn toàn được virus.
Một số nước như Đan Mạch, Singapore – số thành công trong kiềm chế lây nhiễm ở mức thấp, đang tính đến tương lai hậu đại dịch, giảm biện pháp hạn chế phòng ngừa dịch bệnh. Số khác như Mỹ, Anh lại chọn mở cửa kinh tế ngay cả khi lây nhiễm tiệm cận mức kỉ lúc. Cùng lúc, Trung Quốc, Hong Kong/Trung Quốc và New Zealand vẫn kiên quyết theo đuổi chính sách loại trừ virus trong cộng đồng, theo kiểu “không COVID-19″.
“Tiến trình chấm dứt dịch bệnh sẽ không đồng nhất. Đại dịch là hiện tượng sinh học, nhưng cũng là hiện tượng chính trị và xã hội. Ngay ở thời điểm hiện tại thế giới vẫn có những cách tiếp cận khác nhau khi đối diện với COVID-19″, bà Charters nói.
Diễn biến nhiều khả năng sẽ hỗn độn, tạo ra di sản kéo dài trong nhiều năm. Từ nay đến lúc đó, các nước cần sẵm sàng chấp nhận trải qua thêm nhiều tháng trước nguy cơ dịch bệnh tấn công.
Mỹ chưa vơi nỗi lo COVID-19 dù làn sóng Delta có thể đã qua đỉnh dịch
Không khí lạnh trong mùa đông, trẻ em quay trở lại trường học là một trong các yếu tố có thể làm tăng lây nhiễm COVID-19 - giới chuyên gia y tế công tại Mỹ cảnh báo.
Điều trị cho bệnh nhân nhiễm COVID-19 tại Apple Valley, California, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Làn sóng lây nhiễm do biến thể Delta dường như đã qua đỉnh ở Florida và một số bang miền nam từng là tâm dịch vừa qua ở Mỹ. Tuy nhiên, số ca mắc mới và nhập viện cũng đang có xu hướng tăng lên tại nhiều bang khác như Kentucky và North Carolina. Giới chuyên gia y tế cảnh báo việc trẻ em trở lại trường học mà chưa được tiêm chủng cùng với thời tiết lạnh vào mùa đông ở các bang miền bắc và kỳ nghỉ lễ dịp cuối năm có thể là cơ hội để virus bùng phát trở lại.
Tại Mỹ, biến thể Delta có xu hướng làm bùng phát lây nhiễm tại những nơi có tỉ lệ tiêm chủng vaccine thấp hơn mức bình quân toàn quốc. Số ca nhiễm trung bình hàng ngày tính trong tuần kết thúc vào ngày 4/9 là 164.000 ca, tăng mạnh so với mứ 12.000 ca/ngày hồi tháng 6 vừa qua.
Một số bang lây nhiễm giảm mạnh. Số ca nhiễm mới tại Arkansas, Mississippi và Missouri gần đây thấp hơn hồi tháng 7, với số ca nhập viện cũng bắt đầu có xu hướng giảm từ cuối tháng 8. Dịch bệnh cũng đang dịu đi tại Florida, nơi từng là tâm dịch trong làn sóng lây nhiễm vì biến thể Delta lần này với số ca mắc mới được ghi nhận cao nhất từ trước đến nay. Trong tuần từ 28/8-3/9, Florida có tổng cộng 129.000 ca nhiễm mới, giảm 15% so với tuần trước đó.
Theo Mary Jo Trepka, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Quốc tế Flordia, có nhiều tín hiệu tích cực tại bang miền nam này. Số ca bệnh nặng phải nhập viện ở mức cao trước đó khiến người dân nâng cao ý thức, tuân thủ các biện pháp phòng bệnh để tránh lây nhiễm và phát tán lây nhiễm. Trong tháng 7 và tháng 8, tỉ lệ tiêm chủng vaccine cũng tăng nhanh tại các bang bị ảnh hưởng nặng nhất. Tuy nhiên, theo bà Trepka, chưa thể nói trước được điều gì khi học sinh bắ đầu trở lại trường học.
Dịch bệnh lắng dịu ở Flordia và các bang miền Nam đưa tới số ca lây nhiễm trên toàn quốc giảm. Nhưng chưa thể khẳng định xu hướng này sẽ tiếp diễn trong thời gian tới hay không. Giới chuyên gia dịch tễ nhìn nhận tác động từ làn sóng lây nhiễm biến thể Delta chưa hết. Số ca tử vong trung bình tại Mỹ hiện vẫn là 1.500 ca/ngày, vượt xa mức định của những sóng lây nhiễm nhỏ hồi mùa hè năm 2020.
Xét nghiệm COVID-19 cho học sinh tại Louisville, bang Kentucky. Ảnh: Getty Images
Nhiều chuyên gia cho rằng có lý do để lo ngại căn cứ vào những diễn biến tại Anh liên quan đến xu hướng lây nhiễm vì biến thể Delta. Số ca mắc trung bình theo ngày tại Anh giảm mạnh trong tháng 7, từ mức đỉnh 48.000 ca/ngày xuống còn 26.000 ca cuối tháng 7. Nhưng sau đó số ca mắc lại tăng trở lại, lên mức trung bình 35.000 ca hồi cuối tháng 8.
Số ca nhiễm ở nhiều bang tại Mỹ như Kentucky và West Virginia hiện có dấu hiệu tăng nhanh, đe dọa xóa nhòa những diễn biến tiến tích cực ở Florida và khu vực miền nam. Dịch bệnh cũng lan nhanh tại nhiều vùng ở miền Trung Tây.
Số liệu của Đại học Johns Hopkins cho thấy, hơn 40 bang tại Mỹ hiện có số ca mắc mới trong ngày cao hơn với thời điểm 2 tuần trước đây. "Những gì từng xuất hiện ở miền nam nay lại dịch chuyển sang vùng phía bắc và phía tây", Peter Hotez, Hiệu trưởng trường Đại học Y Nhiệt đới Baylor nêu quan điểm về xu hướng dịch bệnh tại Mỹ.
Một câu hỏi có tính mấu chốt hiện nay chính là việc các bang có thời tiết lạnh giá nhưng có tỉ lệ tiêm chủng vượt mức trung bình toàn quốc sẽ đối chọi ra sao trước virus SARS-CoV-2. Nội bật trong số này là các bang thuộc vùng New England bờ Đông. Hiện có 66% người dân bang Massachusetts tiêm đủ hai liều vaccine, một tỉ lệ chỉ thấp hơn hai bang lân cận là Vermont và Connecticut, nhưng vượt xa mức bình quân 53.2% toàn quốc.
Độ che phủ cao của vaccine giúp ngăn chặn tác động của virus. Tuy nhiên đây không phải là một bảo đảm tuyệt đối. Oregon là bang có tỉ lệ tiêm ngừa cao ở Mỹ, nhưng mới đây cũng rơi vào tình cảnh gia tăng số ca nhiễm mới. Điều này cho thấy một thực tế biến thể Delta dễ dàng phát hiện và tấn công thẳng vào nhóm dân cư không được bảo vệ. Giới chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất ở thời điểm hiện tại để chống chọi với COVID-19 là khích lệ càng nhiều người đi tiêm chủng càng tốt.
Mô hình tiêm chủng kết hợp vaccine ngừa COVID-19 Trong nỗ lực đẩy nhanh chiến dịch tiêm chủng vaccine ngừa COVID-19, một số quốc gia đang từng bước cho phép tiêm mũi thứ hai bằng loại vaccine khác với mũi đầu tiên. Thủ tướng Đức Angela Merkel đã được tiêm mũi 2 bằng vaccine của hãng Moderna. Ảnh: AFP/TTXVN Lãnh đạo một số nước cũng đã được tiêm chủng theo mô hình...