Đối tượng cần đặc biệt lưu ý khi dùng thuốc chống đông m.áu
Để ngăn ngừa sự hình thành và phát triển các cục m.áu đông, từ đó phòng tránh nguy cơ đau tim, đột quỵ và các hậu quả khác do đông m.áu gây ra, nhiều người phải sử dụng thuốc chống đông m.áu hàng ngày. Tuy nhiên khi dùng nhóm thuốc này người bệnh cần thận trọng.
Các nhóm thuốc chống đông m.áu thường dùng
Hiện nay có 3 nhóm thuốc chống đông m.áu chính được sử dụng trong điều trị và phòng ngừa các bệnh do m.áu đông gây ra:
Nhóm heparin: Có tác dụng nhanh hoặc chậm tùy vào trọng lượng phân tử của thuốc. Với khả năng tạo ra tác dụng nhanh chóng, các thuốc chống đông m.áu nhóm heparin được dùng trong điều trị và dự phòng các bệnh như thuyên tắc phổi, chạy thận nhân tạo, huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới và hội chứng mạch vành cấp. Cần lưu ý, các thuốc chống đông m.áu nhóm heparin được dùng với đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch và không được tiêm bắp.
Wafarin và các thuốc chống đông m.áu kháng vitamin K: Là nhóm các thuốc chống đông m.áu ngăn chặn gián tiếp chu trình đông m.áu bằng cách cạnh tranh với vitamin K, ngăn cản quá trình tổng hợp một số yếu tố đông m.áu phụ thuộc vitamin K ở gan.
Các thuốc chống đông m.áu kháng vitamin K được dùng đường uống, hấp thu nhanh qua niêm mạc ruột, tuy nhiên thuốc có tác dụng chậm và tăng dần theo thời gian (sau 2-5 ngày). Thuốc chống đông m.áu kháng vitamin K đặc biệt hiệu quả trên tĩnh mạch, được sử dụng trong điều trị kháng đông m.áu kéo dài sau khi điều trị bằng heparin.
Thuốc kháng vitamin K có bản chất acid, liên kết mạnh với albumin, do đó có nguy cơ cạnh tranh liên kết albumin trong huyết tương với các thuốc khác, hoặc tác động lên chuyển hóa ở gan, làm tăng nguy cơ c.hảy m.áu. Vì vậy khi sử dụng hết sức lưu ý tương tác bất lợi trong các phác đồ điều trị có nhiều thuốc.
Nhóm các thuốc chống kết tập tiểu cầu: Các thuốc như aspirin, clopidogrel (plavix), dipyridamole (persantine), prasugrel (effient), ticagrelor (brilinta), vorapaxar (zontivity) ngăn cản các tiểu cầu kết tập tạo ra các nút tiểu cầu, dẫn tới hình thành cục m.áu đông.
Video đang HOT
Các thuốc chống kết tập tiểu cầu được sử dụng trong sơ cứu cầm m.áu, phòng ngừa huyết khối ở những bệnh nhân bị nhồi m.áu cơ tim, tai biến mạch m.áu não, hội chứng mạch vành cấp, đau thắt ngực…
Sư hình thành cục m.áu đông gây ra môt loạt các bênh lý nguy hiêm.
Thận trọng khi dùng thuốc
Việc hình thành cục m.áu đông hay huyết khối trong tim và não rất nguy hiểm, vì có thể gây ra đau tim hoặc đột quỵ và các biến chứng nguy hiểm khác. Việc sử dụng các thuốc chống đông m.áu sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Tuy nhiên cần sử dụng hết sức thận trọng, chọn lựa từng loại thuốc phù hợp với thể trạng bệnh nhân và chỉ sử dụng khi có chỉ định của thầy thuốc trên cơ sở lợi ích, nguy cơ và các thuốc dùng cùng lúc.
Nếu dùng thuốc chống đông m.áu kháng kali như warfarin, người bệnh nên thực hiện xét nghiệm m.áu thường xuyên để thầy thuốc có thể điều chỉnh liều lượng nếu có các biểu hiện bất thường về m.áu.
Thuốc chống đông m.áu có thể tương tác với thức ăn, thuốc và các chất khác làm tăng nguy cơ mắc các tác dụng phụ của như phản ứng dị ứng, rối loạn tiêu hóa, phát ban, rụng tóc, ngứa da, ớn lạnh, viêm mạch m.áu của bạn, rối loạn gan hoặc túi mật, c.hảy m.áu nhiều khi bị thương… Nếu các triệu chứng kéo dài hoặc nghiêm trọng như liên tục đau bụng trong vài ngày, tiêu chảy, sốt cao… người dùng thuốc phải đến bệnh viện để có hướng giải quyết ngay.
Khi dùng thuốc chống đông m.áu, nguy cơ c.hảy m.áu nhiều hơn nếu người bệnh bị những vết cắt nhỏ hoặc vết bầm tím, thậm chí có thể bị c.hảy m.áu bên trong nếu bị tai nạn ngã hoặc đ.ập đ.ầu. Vì vậy, trong khi sử dụng thuốc chống đông m.áu, nên hết sức cẩn thận khi tham gia các hoạt động va chạm, dễ gây thương tích.
Nếu thấy bất kỳ dấu hiệu c.hảy m.áu bất thường nào, như k.inh n.guyệt nhiều hơn bình thường, có m.áu trong nước tiểu hoặc phân, c.hảy m.áu lợi hoặc c.hảy m.áu mũi, nôn mửa hoặc ho ra m.áu, chóng mặt, đau đầu dữ dội hoặc đau bụng… cần báo ngay với thầy thuốc để xử trí kịp thời.
Đối tượng dễ mắc thuyên tắc phổi
Thuyên tắc phổi là một biến chứng nguy hiểm của thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, bệnh thường dễ nhầm với các bệnh khác, lâm sàng thường bị bỏ qua, vì vậy nó còn có tên "người cải trang vĩ đại".
Thuyên tắc phổi xuất hiện khi có một vật gây tắc nghẽn làm cản trở dòng m.áu c.hảy qua động mạch phổi. 90% trường hợp thuyên tắc phổi xuất phát từ cục m.áu đông hình thành trong bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu. Khoảng 80% các cục m.áu đông này sẽ tự tan biến mà không gây tắc mạch phổi, 20% còn lại có thể di chuyển đến tĩnh mạch chậu đùi và bị vỡ, cho phép một cục m.áu đông di chuyển lên tĩnh mạch chủ dưới và sau cùng lên phổi sẽ gây ra sự tắc nghẽn tại đó.
Bệnh thường khởi phát đột ngột bằng các triệu chứng hô hấp như khó thở, thở nhanh, ho ra m.áu, khò khè... Người bệnh cũng có thể có cảm giác đau ngực, choáng váng, tim nhanh, đo thấy huyết áp tụt. Nếu huyết khối lớn, gây tắc nghẽn một nhánh động mạch phổi lớn, bệnh nhân có thể nhanh chóng suy hô hấp, trụy tuần hoàn và ngưng tim ngưng thở.
Hơn 30% các trường hợp thuyên tắc phổi có triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới: một chân sẽ sưng phù, sờ thấy mát hơn chân bên kia, tê hoặc dị cảm, đau bắp chân tự nhiên hay khi gập bàn chân, kèm viêm tắc hệ tĩnh mạch nông dưới da...
Mọi yếu tố nguy cơ tăng đông đều có thể là nguyên nhân của thuyên tắc phổi. Những bệnh nhân có di chứng yếu liệt sau đột quỵ, sau chấn thương gãy chân, phẫu thuật vùng bụng chậu, nằm bất động trên giường dài ngày, sau chuyến bay nhiều giờ, công việc phải đứng liên tục..., m.áu ở chân kém hồi lưu về tim, ứ đọng dễ thành lập huyết khối.
Những bệnh nhân có bệnh lý ác tính, đang được điều trị bằng hóa trị liệu, nội tiết tố ngoại sinh, phụ nữ uống thuốc ngừa thai, đang mang thai... có tình trạng tăng đông m.áu hơn bình thường. Ngoài ra, người lớn t.uổi, gia đình có người bị thuyên tắc phổi hay huyết khối tĩnh mạch sâu, bản thân có bệnh rối loạn đông cầm m.áu bẩm sinh cũng là những yếu tố nguy cơ thường gặp của thuyên tắc phổi.
Thuyên tăc phôi xay ra khi co vât gây tăc nghen dong mau chay qua đông mach phôi.
Điều trị thế nào?
Điều trị thuyên tắc phổi nhằm mục đích làm tan cục m.áu đông, ngăn cục m.áu đông phát triển to hơn và ngăn cục m.áu đông mới tạo thành. Bước đầu tiên trong điều trị thuyên tắc phổi là điều trị shock và cung cấp ôxy. Các thuốc chống đông m.áu như heparin, wafarin được sử dụng để ngăn sự tạo thành cục m.áu đông. Đặc biệt hiện nay hay sử dụng các heparin trọng lượng phân tử thấp như enoxaparin để thay thế cho heparin vì chúng có hiệu quả điều trị tương đương heparin, tiện dụng hơn (chỉ cần điều chỉnh liều theo cân nặng, không cần theo dõi aPTT) và an toàn với bệnh nhân (ít nguy cơ giảm tiểu cầu).
Các thuốc tiêu sợi huyết (làm tan cục m.áu đông đã hình thành) cũng có thể được sử dụng, nhưng chúng gây ra nguy cơ xuất huyết cao cho bệnh nhân nên thường chỉ được dùng trong những trường hợp nặng.
Ngoài ra, những bệnh nhân yếu và huyết áp tụt có thể dùng thêm thuốc như dopamin để tăng huyết áp.
Phòng bệnh
Do không có hoặc các triệu chứng lâm sàng không đặc trưng, các xét nghiệm cũng gặp phải những khó khăn trong chẩn đoán thuyên tắc phổi,vì vậy, việc đ.ánh giá mức độ nguy cơ bệnh nhân đang có, từ đó biết được xác suất mắc bệnh để có biện pháp dự phòng là cách tiếp cận tốt nhất.
Bệnh nhân có nguy cơ cao có nhiều cách để phòng bệnh như dùng các thuốc chống đông m.áu (heparin, enoxaparin, wafarin), sử dụng tất băng nịt giảm lượng m.áu ứ đọng tránh tạo thành cục m.áu đông.
Ngoài ra, có những cách để giảm nguy cơ thuyên tắc huyết khối như: rèn luyện, luyện tập thể dục thường xuyên; không nên nằm lâu ngày sau khi phẫu thuật, sau tai biến mạch m.áu não; sản phụ cần đi lại, nằm đúng tư thế để tránh cho thai không gây chèn ép tĩnh mạch chậu.
90% thuyên tắc phổi bắt nguồn từ huyết khối tĩnh mạch sâu, do vậy nên đến bác sĩ chuyên khoa khám nếu thấy dấu hiệu sưng to bất thường một chân, nặng chân, đau chân, cũng có thể đến bệnh viện lớn để làm siêu âm Doppler nếu có điều kiện.
Tự ý bỏ thuốc chống đông, người bệnh may mắn được can thiệp kịp thời Bệnh viện Đại học Y Hà Nội vừa can thiệp tĩnh mạch não của bệnh nhân hút ra nhiều cục m.áu đông, tái thông dòng chảy thành công. Bệnh nhân Đ.T.X. (nữ, 62 t.uổi) được chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch não từ vài tháng trước. Các bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân dùng thuốc chống đông và theo dõi định kỳ,...