Đổi thay trên cung đèo Lũng Lô
Cung đèo Lũng Lô lừng danh như một huyền thoại lịch sử kháng chiến cách đây 70 năm khi là huyết mạch tiếp viện quân lương và vũ khí cho chiến dịch Điện Biên Phủ, đang thấp thoáng một ‘huyền thoại mới’.
Cung đèo lịch sử Lũng Lô có đài tưởng niệm mới khánh thành.Ảnh: Tùng Duy.
Kỳ tích từ cung đèo lịch sử
Lũng Lô – cung đèo lịch sử được bí mật khởi công từ tháng 4/1953 bằng bàn tay của công binh và dân công địa phương, trong đó có sự đóng góp của người dân xã Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) với hơn 124.000 lượt người.
Hơn 200 ngày đêm mở núi quân dân ta đã tạc nên một cung tuyến Lũng Lô huyết mạch thông suốt. Từ đây qua núi cao vực sâu, hàng vạn ô tô, xe thồ chở vũ khí và quân lương tiếp ứng đầy đủ, kịp thời cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Đã 70 năm đi qua, con đường 37 bây giờ, nối từ quốc lộ 32, đã được mở rộng nhưng vẫn như dựng đứng toàn dốc kéo lên đỉnh Lũng Lô. Nơi “chị gánh anh thồ, anh hò chị hát”, thật khó tưởng tượng khi phải chịu đựng tới 12.000 tấn bom đạn của giặc Pháp, có ngày chịu tải 200 quả bom dội xuống với hàng chục lượt máy bay oanh tạc. Địch phá, ta sửa. Đoạn này vỡ, ta mở đoạn khác.
Bên này vách núi còn đây hang Thương Binh (cứu chữa bộ đội và dân công bị thương), bên kia là hang Vũ Khí (cất chứa vũ khí, đạn dược rồi chuyển tiếp lên chiến dịch), dấu tích khí phách của năm tháng hào hùng giờ còn nguyên vẹn.
Năm 2011, cung đường Lũng Lô được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia. Bia tưởng niệm năm xưa trên đỉnh đèo mới đây đã được tuổi trẻ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Yên Bái dựng lại, cải tạo khang trang.
“Huyền thoại mới” từ kinh tế rừng
Bí thư Đoàn xã Thượng Bằng La Hoàng Văn Ánh dẫn phóng viên Báo Đại Đoàn Kết vào bản Dạ ở chân đèo, ghé nhà Trưởng thôn Vũ Văn Hạnh.
Bản nhỏ chân núi có 115 hộ với gần 500 nhân khẩu. Nhà sàn gỗ chắc kề nhau, đã có đường bê tông toàn diện ngõ xóm, rừng xanh bạt ngàn cây to bao quanh. Có tới nửa bản còn giữ được nhà sàn tuổi đến trăm năm. “Cả thôn chỉ còn 1 hộ nghèo”, Trưởng thôn Vũ Văn Hạnh nói.
Video đang HOT
Các cụ nhà ông Hạnh từ quê Thái Bình xưa lên Văn Chấn làm công dân hỏa tuyến chiến dịch Điện Biên Phủ. Bây giờ nhà ông có 4 ha măng điền trúc (thu 60 triệu đồng/năm), 1 ha bồ đề (thu 70 triệu đồng/năm), ngô thu 100 triệu đồng/năm, đàn bò 10 con trị giá 250 triệu đồng, tổng hằng năm thu gần 300 triệu đồng. Năm kia ông dựng nhà sàn mới trị giá gần 1 tỷ đồng. Các hộ trong thôn đều có đồi rừng và nuôi bò. Nhà ông Vũ Văn Đạt có đồi quế vừa bán, thu tới 1 tỷ đồng. Thôn có tới 40 hộ trồng quế, nhiều nhà sắm ô tô, xe tải.
Giao thông nối sang Phú Thọ, sang Sơn La, đi Yên Bái nhập cao tốc giờ đã rất thuận lợi, và cung đèo lịch sử Lũng Lô vẫn là con đường đi lại hằng ngày của dân Thượng Bằng La cũng như vận chuyển lâm sản. Thương lái tìm về các bản từng ngày, dường như dân bản Dạ và các thôn khác toàn xã không ai phải tìm mối tiêu thụ lâm sản.
Những chính sách của Nhà nước về vốn và hỗ trợ sát sao của huyện Văn Chấn về vật tư, kỹ thuật nông lâm đã khiến đổi thay nhanh chóng thôn Dạ, thôn Đá Đỏ, thôn Noong Tài…
Cây nguyên liệu, quế, măng tre là nguồn thu chủ lực, tạo nên một huyền thoại mới về kinh tế rừng cho Thượng Bằng La để cán đích xã Nông thôn mới sớm nhất trong huyện năm 2016. Bây giờ xã có nhiều dự án làm kinh tế như trồng cây ăn quả có múi (500 ha), dâu tằm, chè, cây dược liệu, và cả khu homestay ở bản Noong Tài cho khách phượt check-in và lưu trú do các bạn trẻ Đoàn xã đầu tư.
Ngay trên đỉnh đèo Lũng Lô, một doanh nghiệp từ nhiều năm qua phát hiện độ cao và thổ nhưỡng thích hợp trồng hàng chục ha cây dược liệu (hà thủ ô), mỗi tháng xuất hàng chục tấn. Từ 10 năm trước, hãng Nipon Juki (Nhật) đã về Thượng Bằng La đầu tư nuôi thỏ (chế biến dược phẩm). “Tới nửa số con em bản Dạ và Đá Đỏ làm công nhân cho Nhật đấy. Lương khá lắm”, ông Hạnh cho biết.
Một xã núi hoang sơ nghèo đói thuở nào, có tới hơn 50% là dân tộc Tày, từng góp ngô khoai cho bộ đội, góp sức dân công mở đường đèo chiến dịch, nay làm nên một “huyền thoại mới” từ kinh tế rừng. “Xã chỉ còn 2,9% hộ nghèo. Chắc chắn lên chuẩn nông thôn mới nâng cao năm nay. Phải xứng với hy sinh của cha ông năm xưa chứ”, Chủ tịch xã Hoàng Đình Mưu giọng chắc nịch nói.
Ngay bên kia chân đèo Lũng Lô anh hùng là xã Mường Cơi của huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La). Đã thấy hiện ra như một thị trấn có nhiều nhà tầng rất đẹp. Đó là thôn nông thôn mới kiểu mẫu Nghĩa Hưng – nơi không có hộ nghèo, và hộ giàu chiếm tới 60%.
Cung đèo nổi tiếng nào của Việt Nam có tên gọi mang nghĩa 'sừng trời'?
Tứ Đại Đỉnh Đèo được biết đến 4 con đèo cao và nguy hiểm bậc nhất Việt Nam nhưng cũng là nơi có cảnh quan đẹp hút hồn.
1. Tứ đại đỉnh đèo ở Việt Nam gồm những địa danh nào?
A. Ô Quý Hồ, Mã Pí Lèng, Mã Phục, Hải Vân
B. Pha Đin, Mã Pí Lèng, Khau Phạ, Mã Phục
C. Pha Đin, Ô Quý Hồ, Mã Pí Lèng, Khau Phạ
Chính xác
Tứ Đại Đỉnh Đèo được biết đến 4 con đèo cao và nguy hiểm bậc nhất Việt Nam, bao gồm: Đèo Mã Pí Lèng, Đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ và đèo Pha Đin. Cả 4 con đèo này đều nằm ở vùng núi Tây Bắc của Tổ Quốc, là những địa điểm "check in" yêu thích của du khách với phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ.
2. Cung đèo dài 2,5 km có đến 14 tầng dốc đầy nguy hiểm tên là gì?
A. Mẻ Pia (Khau Cốc Chà)
B. Ô Quý Hồ
C. Nà Tếnh
Chính xác
Đèo Mẻ Pia thuộc tỉnh Cao Bằng nằm trên quốc lộ A4, đèo xây dựng nối liền xã Xuân Trường đến trung tâm huyện Bảo Lạc, huyện giáp với biên giới Trung Quốc. Đèo Mẻ Pia còn được biết đến với tên gọi là đèo 14 tầng hay đèo Khau Cốc Chà. Đoạn đường đèo chỉ khoảng 2,5km nhưng lại khúc khủy và phân thành 14 tầng dốc. Đoạn đường đèo là dốc thẳng đứng, sở dĩ xây dựng thành 14 tầng như vậy để tạo thành 14 khúc cua nhầm hạ độ cao và dốc để các phương tiện giao thông có thể đi lại dễ dàng hơn.
Con đèo này đã gắn liền với dân bản địa từ rất lâu, trước đây nó chỉ rộng khoảng 40cm, đường núi cheo leo và rất khó khăn trong việc di chuyển. Nhưng vào năm 2009, Đèo Mẻ Pia đã được xây dựng và mở rộng bề mặt đường lên đến 5m, quá trình thi công đến năm 2011 mới hoàn thành. Tuy đường đã mở rộng nhưng không vì vậy mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng chinh phục.
Đoạn đường khúc khủy đoạn cua gấp liên tục nên nơi đây khá nguy hiểm, khi chinh phuc cung đường đèo 14 tầng bạn sẽ cảm tưởng đang leo núi với một cách khác và cũng không kém phần mạo hiểm. Nếu di chuyển đường đèo du khách nhất định phải chạy chậm và thật cẩn thận mọi đoạn đường, khúc cua. Và nếu di chuyển bằng xe máy thì nhất định phải chắc rằng mình là "tay lái lụa" để có thể cân được 14 tầng dốc. Tuy có đôi chút mạo hiểm là vậy nhưng khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống, du khách sẽ thốt lên hai chữ "tuyệt vời" bởi khung cảnh Đông Bắc quá đỗi hùng vĩ bởi những đồi núi trùng điệp, nhưng đầy chất thơ bởi những dải mây trắng trôi bồng bềnh xen kẽ những dãy núi.
3. Đèo nào trong 'tứ đại đỉnh đèo' có nghĩa là 'Sừng trời'?
A. Mã Pí Lèng
B. Khau Phạ
C. Pha Đin
Chính xác
Người Thái đặt tên cung đèo hùng vĩ và hiểm trở bậc nhất vùng Tây Bắc là Khau Phạ, nghĩa là sừng trời. Đèo có độ dài hơn 30 km, vắt qua những dãy núi non trùng điệp, có độ cao trung bình 1.200 - 1.500 m, nối liền Mù Cang Chải với thung lũng lúa Tú Lệ, Văn Chấn thuộc tỉnh Yên Bái.
4. 4. Cung đèo nào dài nhất Việt Nam?
A. Hải Vân
B. Mã Phục
C. Ô Quy Hồ
Chính xác
Đèo Ô Quy Hồ là cung đường dài nhất Việt Nam với chiều dài lên tới 50km trên tuyến đường quốc gia lộ 4D cắt ngang dãy Hoàng Liên Sơn.
5. 5. Đèo nào trong 'tứ đại đỉnh đèo' nằm trên cung đường Hạnh Phúc?
A. Mã Pí Lèng
B. Ô Quy Hồ
C. Pha Đin
Chính xác
Cung đường Hạnh Phúc dài 185 km xây trong 6 năm nối toàn tuyến TP Hà Giang - Đồng Văn - Mèo Vạc. Trong đó, đèo Mã Pí Lèng chạy dài 20 km, uốn quanh đỉnh núi cùng tên cao 2.000m thuộc cao nguyên đá Đồng Văn. Cung đèo đẹp nổi tiếng với những khúc uốn lượn vắt từ sườn núi này sang sườn núi khác. Hai bên đường đá núi cao sừng sững và vực thẳm sâu hun hút. Cũng dễ hiểu khi nơi đây trở thành địa điểm chụp ảnh phong cảnh yêu thích của những người đam mê nhiếp ảnh.
Trải nghiệm cung đèo tuyệt đẹp Ở độ cao 800 m so với mặt biển lúc trời sắp mưa mây đen tràn qua đỉnh đèo, ngồi cách nhau chừng 5m cũng thấy không rõ mặt người, nhưng khi đám mây trôi qua thì ánh nắng vàng lại trải rộng, tiết trời trở nên ấm áp. Từ đỉnh đèo Gia Bắc phóng tầm mắt ra xa, chúng tôi cảm nhận...