Độc đáo phong tục cưới hỏi của dân tộc Nùng
Phong tục cưới hỏi của dân tộc Nùng không chỉ đơn thuần là việc kết duyên của đôi lứa mà có ý nghĩa lớn hơn là truyền thống, đạo lý của dân tộc, giáo dục về nghĩa vợ chồng trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc, góp phần gắn kết cộng đồng, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Cô dâu người Nùng chờ chú rể ở ngoài sân để làm lễ vào nhà chồng. Ảnh: Thiên Minh
Quan niệm khi xưa, trai gái dân tộc Nùng không được quyền tự do yêu đương mà được sự sắp đặt của gia đình: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Ngày nay, phong tục này dần bị mất đi, thay vào đó, trai gái dân tộc Nùng đến tuổi được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau và tiến đến hôn nhân.
Ông Kỳ Dùng Phú, ở thôn Bản Mạ, xã Bắc Xa, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn cho biết: “Phong tục cưới hỏi của người Nùng rất quan trọng. Người Nùng có quan niệm chuẩn bị tốt, chu đáo mọi việc trước hôn nhân thì đám cưới của cô dâu, chú rể mới thật sự hạnh phúc. Dân tộc Nùng thường chọn thời điểm cưới vào tháng 8 cho đến tháng 10 âm lịch”.
Tục cưới hỏi của người Nùng trải qua 6 bước, trong đó, bước thứ nhất là Sam Mình (hỏi mệnh của cô con gái), nhà trai sẽ cử một người tới nhà cô gái để “đánh tiếng” về chuyện tìm hiểu của đôi trai gái. Ở buổi gặp gỡ này chưa có lễ vật nào mang theo. Nếu nhà gái đồng ý, nhà gái sẽ thông tin cho nhà trai giờ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái vào một tờ giấy hồng hoặc đỏ để đưa cho nhà trai đem về nhà, nhờ ông thầy tướng số xem giúp tuổi. Nếu xem tuổi hợp nhau, nhà trai sẽ tiến hành lễ dạm hỏi.
Bước thứ hai gọi là Pao Mình (lễ dạm hỏi). Bước này, nhà trai lại cử người thân lần trước tới nhà cô gái để nói chuyện về tuổi của cô dâu và chú rể. Nhà trai sẽ mang một lá trầu được đặt trong cái đĩa úp cái bát lên và để ở trước cửa nhà cô gái. Nếu nhà gái không ưng thuận sẽ trả lại lá trầu.
Video đang HOT
Bước thứ ba là Kin Háp (lễ ăn hỏi). Bước này được tổ chức trang trọng hơn, tiến hành sau lễ dạm hỏi khoảng 3 tháng do ước định của hai bên gia đình và dựa vào việc chọn ngày lành, tháng tốt.
Trong buổi lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như: Của hồi môn, tiền bạc, chăn màn, ngày giờ đón dâu… Từ ngày làm lễ ăn hỏi kéo dài từ 2 đến 3 năm mới tiến hành lễ cưới chính thức.
Bước thứ tư là An Nhi (lễ báo ngày cưới). Bước này, nhà trai chọn được ngày lành, tháng tốt, đến thông báo cho nhà gái về thời gian cụ thể của ngày cưới và các khoản đã được báo trước như: Gạo, rưụ, lợn, bạc, tiền…, mặt khác, để hai gia đình có thêm thời gian mời bạn bè, anh em trong nhà thân thuộc về dự lễ cưới.
Bước thứ năm là Co Dảu (ngày cưới), gia đình nhà trai và nhà gái cử ra một số thanh niên giúp làm bếp, tiếp khách… Đồng thời, trong lễ này, nhà trai phải dẫn sang nhà gái một con lợn to, gạo tẻ, rưụ ngon… Nhà trai phải đưa “sính lễ” sang nhà gái từ tối hôm trước.
Người Nùng thường tổ chức ăn cưới 2 ngày đối với người thân, còn bạn bè thì 1 ngày. Khách đến mừng, có thể bằng tiền hoặc vật chất như: Khăn, chăn màn, quần áo…
Bước thứ sáu là Tu Dảu (đón dâu), nhà trai cần phải đón đúng thời gian đã được hai bên thống nhất. Đi theo đoàn chú rể có một đôi vợ chồng làm trưởng đoàn. Cặp đôi này đã có con, khỏe mạnh, hiểu biết các phong tục, tập quán của dân tộc và đặc biệt, thuộc nhiều bài hát sli (một hình thức đối đáp cổ của người Nùng thường hát trong đám cưới). Đi cùng đoàn nhà trai còn có phù rể từ 6 đến 8 người là con gái (dân tộc Nùng kiêng số lẻ). Những người được chọn này phải là người bạn thân thiết của chú rể, biết hát sli, hoạt bát, nhanh nhẹn. Tất cả mọi người đi đón dâu đều phải mặc quần áo truyền thống. Các cô gái đi đưa dâu cũng phải là bạn thân của cô dâu, chưa có chồng, hiền lành, nết na và phải thuộc nhiều bài hát sli.
Bà Vi Thị Tiếp, ở thôn Chi Ma, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình cho biết: “Người Nùng quan niệm, nếu trong ngày cưới, chú rể bị ướt nhiều sẽ gặp may mắn. Khi cô dâu đến nhà trai, cô dâu sẽ dừng lại ngoài sân để thầy cúng làm thủ tục diệt trừ tà ma và cầu phúc cho đôi bạn trẻ khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Làm xong thủ tục, cô dâu vào nhà lạy tạ tổ tiên và gia đình bên chồng, đánh dấu việc cô dâu đã là người trong gia đình của chú rể”.
Ngày nay, do cuộc sống phát triển, một số bước trong tục cưới hỏi của người Nùng được giảm bớt, nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc này.
Thiên Minh
Theo bienphong.com.vn
Trồng khoai lang nghệ trái vụ, củ vừa to đẹp vừa bán được giá
Khoảng 2 năm trở lại đây, nhiều hộ nông dân ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã chuyển diện tích đất cát và đất pha cát sang trồng cây khoai nghệ trái vụ. Do hợp đất, cây khoai nghệ ở đây vừa sai củ, lại thơm ngon nên bán được giá cao.
Do hợp đất và khí hậu nên khoai nghệ Lộc Bình có được vẻ ngoài tròn đều, đẹp mắt và có vị thơm ngon đặc biệt, từ lâu đã nổi tiếng là loại khoai ngon của Lạng Sơn. Năm 2018, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể Khoai nghệ Lộc Bình. Vì thế, khoai nghệ Lộc Bình lại càng được nhiều người dân trong và ngoài tỉnh biết đến hơn và tìm mua bằng được để ăn, khiến cung không đủ cầu.
Cây khoai nghệ trồng trái vụ cho năng suất cao không kém trồng chính vụ
Trước đây, khoai nghệ chỉ được người dân trong huyện trồng một vụ vào tháng 9, đến tháng 11 cho thu hoạch. Nhận thấy nhu cầu lớn, khoảng 2 năm trở lại đây, nhiều hộ dân ở các xã Tú Đoạn, Khuất Xá, Lục Thôn, Yên Khoái, Tú Mịch... của huyện Lộc Bình đã chuyển nhiều diện tích đất cát và đất pha cát sang trồng khoai nghệ trái vụ, bước đầu cho hiệu quả kinh tế cao.
Chị Hoàng Thị Yên, ở thôn Pắc Mạ, xã Yên Khoái cho biết: "Gia đình tôi năm nay trồng gần 3 sào khoai nghệ trái vụ, do thời tiết thuận lợi nên cây khoai phát triển tốt, cho củ to, đẹp. Vừa qua, gia đình tôi thu hoạch được gần 2 tấn khoai, với giá bán tại nhà 15.000 đồng/kg, mang lại khoản thu nhập gần 30 triệu đồng cho gia đình".
Cũng như chị Yên, anh Hoàng Văn Hanh, ở thôn Bản Chu, xã Tú Đoạn cũng có thu nhập khá từ việc trồng khoai nghệ trái vụ, cho biết: "Nhà tôi có 2 sào đất cát ven sông nên gia đình đã tận dụng dây khoai lang của vụ trước để trồng khoai trái vụ. Không ngờ trồng trái vụ mà cây khoai nghệ phát triển tốt, năng suất cao không kém trồng chính vụ, lại bán được giá cao nữa. Vừa rồi, thương lái đến nhà mua, với 2 sào khoai tôi thu được gần 1,5 tấn, mang lại thu nhập trên 20 triệu đồng, cao hơn so với trồng các loại cây khác trên cùng một diện tích. Sang năm, gia đình tôi vẫn sẽ duy trì và mở rộng trồng khoai nghệ trái vụ".
Khoai lang Lộc Bình đã được Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể
Theo bà con nông dân nơi đây cho biết, trồng khoai nghệ trái vụ cũng không khác gì trồng chính vụ, chỉ cần là đất cát hoặc đất pha cát. Tuy nhiên, vì trồng trái vụ nên phải ra đồng kiểm tra thường xuyên giúp phát hiện các loại bệnh thường gặp trên cây khoai để có biện pháp phòng trừ hợp lý.
Cây khoai nghệ sau khi trồng khoảng 80 ngày sẽ tiến hành thu hoạch. Trung bình mỗi sào (360m2) cho thu hoạch khoảng 700 kg củ, với giá bán trên 15.000 đồng/kg, lãi trên 10 triệu đồng/sào.
Tuy diện tích trồng khoai trái vụ tại huyện Lộc Bình còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát nhưng bước đầu đã cho thấy được hiệu quả kinh tế mang lại. Thiết nghĩ, trong thời gian tới, chính quyền địa phương cần nghiên cứu và tuyên truyền cho người dân nơi đây kỹ thuật trồng cây khoai nghệ trái vụ, để người dân yên tẩm sản xuất và có thu nhập cao hơn nữa từ loại cây trồng này.
Theo Hoàng Văn Hương (Trung tâm Khuyến nông quốc gia)
Vài suy ngẫm về văn hóa rượu và uống rượu Với các cuộc thí nghiệm trên những cái hủ gốm ở tỉnh Hà Nam (Trung Quốc), các nhà khoa học đã tìm ra dấu vết của rượu. Từ đó người ta cho rằng rượu đã xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc từ 7.000 năm trước Công nguyên. Đến thời nhà Tấn (220 năm trước Công nguyên) thì việc sản xuất rượu đã...