Doanh nghiệp vừa và nhỏ “trầy trật” tìm cơ hội bứt phá dịp cuối năm
Càng về cuối năm, cuộc đua hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp lại càng gay gắt, vấn đề về nguồn vốn trở thành nỗi “ám ảnh” của các doanh nghiệp, đặc biệt là với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).
Dù chiếm đông đảo tại Việt Nam nhưng trên thực tế nhiều doanh nghiệp SME thiếu tự tin và gặp khó khăn khi gõ cửa ngân hàng vay vốn.
Mặc dù là lực lượng đông đảo, chiếm hơn 98% tổng số doanh nghiệp, tạo ra 63% số lượng việc làm cho xã hội và đóng góp 45% GDP của cả nước, có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội nhưng thực tế cho thấy bộ phận doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc siêu nhỏ vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho hay tại Việt Nam nhìn chung các ngân hàng ưu tiên số 1 cho Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vì họ có sự bảo lãnh của Chính phủ, tiếp đến là các Doanh nghiệp FDI ( DN FDI) và cuối cùng là khối tư nhân gồm DN tư nhân lớn, DN tư nhân nhỏ và kinh doanh phi chính thức. Thế nhưng điều nghịch lích ở đây DN FDI là bộ phận đóng thuế ít nhất, chỉ khoảng 13% trong khi tỷ trọng trong GDP chiếm 20%, vị trí thứ nhì là DNNN và khối tư nhân lại là bộ phận đóng thuế cao nhất. Đáng tiếc hơn miếng bánh thị trường lại không có nhiều cho nhóm DNVVN, tình hình chung các DN này đang có quy mô nhỏ đi, trong khi cần được tạo điều kiện phát triển hơn nữa.
Theo các chuyên gia đánh giá, nguyên nhân khiến nhóm doanh nghiệp này khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đến từ nhiều phía. Nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn xuất phát từ phía doanh nghiệp. Đa phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hoạt động mang tính tự phát, thiếu kế hoạch, chiến lược cụ thể. Bên cạnh đó, nhóm doanh nghiệp này còn có sức chịu đựng rủi ro thấp, khả năng chống đỡ kém trước biến động của kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp.
Nhận biết được điều này, để đồng hành cùng doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ngân hàng đã thi nhau tung ra thị trường hàng loạt các sản phẩm dành riêng cho nhóm doanh nghiệp này với nhiều ưu đãi hấp dẫn, nhằm tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận “nguồn vốn rẻ”, tạo đà bứt phá trong hoạt động kinh doanh dịp cuối năm.
Cũng với mong muốn sát cánh cùng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ sớm hoàn thiện các mục tiêu kinh doanh trong năm 2019, ABBANK đã thiết kế gói vay “Song hành bứt phá” dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. So với hàng loạt sản phẩm đang có mặt trên thị trường cho vay dịp cuối năm, sản phẩm này của ABBANK với ưu điểm nổi trội đó là hạn mức cao, lãi suất cực kì ưu đãi, hồ sơ kiểm duyệt nhanh chóng… chính là “điểm tựa” mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tìm kiếm để có lợi thế trên đường đua cán đích doanh số cuối năm 2019.
Video đang HOT
Theo đó, chương trình ưu đãi lãi suất được ABBANK triển khai từ nay đến hết ngày 31/12/2019, áp dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ có doanh thu năm gần nhất tối đa là 200 tỷ đồng, hiện doanh nghiệp đang có nhu cầu bổ sung vốn ngắn hạn cho các hoạt động kinh doanh, vào dịp cuối năm 2019, đầu năm 2020. Để kịp thời tiếp cận nguồn vốn ưu đãi với tỷ lệ giải ngân cao từ ABBANK, khách hàng đáp ứng điều kiện tín dụng và đa dạng các loại tài sản đảm bảo thỏa điều kiện của chương trình sẽ nhận được một trong hai gói cho vay ưu đãi với lãi suất cố định trong 3 tháng đầu chỉ từ 7,8%/ năm hoặc 6 tháng đầu chỉ từ 8,3%/ năm, gói vay áp dụng cho đồng VNĐ với thời gian vay tối đa 12 tháng.
Quyền Tổng Giám đốc ABBANK, ông Phạm Duy Hiếu cho biết: “Thông qua chương trình ưu đãi về lãi vay “Song hành bứt phá”, ABBANK mong muốn hỗ trợ kịp thời về nguồn vốn với những điều kiện cho vay đi kèm linh hoạt cho các khách hàng SMEs, đặc biệt là trong giai đoạn cuối năm 2019. Chương trình còn là cơ hội để khách hàng tiếp cận các dịch vụ tiện lợi, những giải pháp tài chính tối ưu được ABBANK thiết kế phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”.
Với hạn mức cao lên tới 2.500 tỷ cùng với lãi suất ưu đãi đầy hấp dẫn, sản phẩm vay “Song hành bứt phá” mà ABBANK đem lại hứa hẹn sẽ là động lực to lớn, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp vững tin nắm bắt cơ hội, đổi mới và sáng tạo để tạo bứt phá dịp cuối năm 2019.
Ánh Dương
Theo Nhịp sống kinh tế
Nợ xấu ngân hàng tăng mạnh, xử lý cách nào?
Tổng mức nợ xấu dù vẫn ở mức dưới 3% như quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng nhóm có khả năng mất vốn lại cao.
Nợ xấu đang tăng nhanh tại các ngân hàng trong khi nhiều vướng mắc chính sách lại chưa được tháo gỡ (Trong ảnh: Khách hàng giao dịch tại ngân hàng An Bình). Ảnh: Lã Anh
Đi cùng với lợi nhuận, nợ xấu tại nhiều ngân hàng cũng tăng mạnh theo. Đáng chú ý, tổng mức nợ xấu dù vẫn ở mức dưới 3% như quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng nhóm có khả năng mất vốn lại cao.
Nợ xấu cả ngân hàng lớn lẫn nhỏ đều tăng
Kết thúc quý 3 năm nay, Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) đón thông tin tích cực khi lợi nhuận lũy kế từ đầu năm tăng hơn 33% lên 773,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong khi quy mô tín dụng giảm nhẹ thì chất lượng nợ lại đáng lo ngại. Nợ đủ chuẩn (nhóm 1) và nợ cần chú ý (nhóm 2) của ngân hàng giảm nhưng nợ ba nhóm còn lại tăng rất mạnh: Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng hơn 250% lần, nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 26,3%, nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng 56%.
Đến ngày 30/9, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng (thị trường 1) của ABBank tăng vọt lên 3,39%, so với con số đầu năm chỉ 1,89%; tỷ lệ nợ xấu trên tổng tín dụng cũng tăng lên 2,78%.
Tính đến cuối tháng 9, nợ xấu của Ngân hàng MTCP Nam Á (NamABank) cũng tăng tới 91% so với đầu năm lên 1.496 tỷ đồng dù lợi nhuận của ngân hàng cũng tăng nhẹ. Tương tự như ABBank, nợ xấu của ngân hàng này chủ yếu tăng cao ở nhóm 3 và nhóm 4; khiến tổng dư nợ cho vay tăng từ 1,54% lên 2,37%.
Một trường hợp đáng chú ý khác là Ngân hàng MTCP Quân đội (MBBank), so với đầu năm, tổng nợ xấu tới ngày 30/9 tăng tới 29% lên 3.703 tỷ đồng. Trong đó, riêng nợ nhóm 5 tăng mạnh 40% lên 1.348 tỷ đồng.
Không chỉ ở các ngân hàng TMCP ngoài quốc doanh, ngân hàng MTCP quốc doanh lớn cũng gặp phải tình trạng tương tự. Tại ngày 30/9, nợ xấu nội bảng của BIDV là 22.436 tỷ đồng, tăng 19,3% so với đầu năm nay. Trong khi, nợ nhóm 3 và nhóm 4 giảm thì nợ nhóm 5 của BIDV lại tăng rất mạnh 70% so với hồi đầu năm lên 12.194 tỷ đồng. Điều này đã đẩy tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay khách hàng của BIDV tăng từ 1,9% hồi đầu năm nay lên 2,09% khi kết thúc quý 3.
Hay tại ngân hàng đang giữ vị trí số 1 về lợi nhuận là Vietcombank thì sự chuyển biến về chất lượng nợ cũng không lạc quan. Đến ngày 30/9 quy mô tín dụng của Vietcombank tăng 12% và nợ ở tất cả các nhóm cũng tăng theo. Trong đó, nợ nhóm 3 tăng 324,9%, nhóm 4 tăng 31%, nợ nhóm 5 chỉ tăng nhẹ 1,9% lên 4.860 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay khách hàng của Vietcombank tăng từ mức dưới 1% hồi đầu năm lên 1,07% cuối tháng 9/2019.
Đừng để xử lý 1 đồng mà phát sinh 2 đồng nợ xấu
Cho đến thời điểm hiện tại, ngân hàng cho vay dự án BOT đạt 110.000 tỷ đồng, thì đến 1/2 là doanh thu không đạt như dự kiến. Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều văn bản gửi Bộ GTVT, các địa phương và Chính phủ với mong muốn tháo gỡ khó khăn cho các dự án.
Tuy nhiên, đến nay vấn đề vẫn không xử lý được dứt điểm. Vì vậy, việc cần làm hiện nay là tháo gỡ khó khăn của các dự án BOT hiện tại để khơi thông tín dụng cho các dự án về sau. Nếu không làm được nợ xấu sẽ ngày càng tăng cao, khó có vốn cho các dự án BOT mới.
Bà Nguyễn Vân Anh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước
Nợ xấu tăng đã khiến khoản trích lập dự phòng cụ thể của Vietcombank cho các khoản vay của khách hàng tăng 49%. Tại BDV, khoản trích lập dự phòng cụ thể cho các khoản vay tại thời điểm ngày 30/9 cũng tăng tới 82% so với đầu năm nay.
Tại MBBank, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng cũng tăng mạnh 59%. Xét về cơ cấu khoản vay, bên cạnh cho vay tổ chức thì các khoản cho vay cá nhân của MBBank tăng tới 19% và chiếm hơn 40% tổng dư nợ. Ba nhóm tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu cho vay của MBBank là cho vay hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất và dịch vụ tiêu dùng (chiếm 31,7% dư nợ), cho vay nhóm bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác (22,8%) và cho vay nhóm công nghiệp chế biến chế tạo (16%).
Theo ông Phạm Quang Dũng Tổng giám đốc Vietcombank, Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu đưa ra rất rõ nguyên tắc quyền ưu tiên thanh toán nghĩa vụ nợ có bảo đảm của tổ chức tín dụng khi có tài sản đảm bảo liên quan đến các vụ án.
Tuy nhiên, tới nay chưa có hướng dẫn cụ thể của Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính dẫn đến thực tế một số chi cục thuế địa phương vẫn yêu cầu doanh nghiệp hoàn thiện tất cả các nghĩa vụ thuế trước khi hoàn thiện các thủ tục liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu tài sản. "Đây cũng chính là vướng mắc trong thực tế xử lý các khoản nợ xấu", ông Dũng nhấn mạnh.
Chỉ đạo về nợ xấu ngành ngân hàng, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã đề nghị ngành ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời xem lại cơ cấu tín dụng và phải có chế độ tự kiểm soát rủi ro, kiểm soát nội bộ nhất là với lĩnh vực rủi ro là bất động sản, chứng khoán và BOT.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng cơ chế cảnh báo sớm, yêu cầu thanh tra tài chính phải có chế độ báo cáo và xử lý nghiêm các tổ chức vi phạm. "Để không phát sinh nợ xấu mới. Nếu xử lý 1 đồng mà phát sinh 2 đồng thì không bao giờ đạt mục tiêu", Phó Thủ tướng nói.
Cao Sơn
Theo Baogiaothong.vn
Sau đợt giảm lãi suất huy động, ngân hàng nào đang dẫn đầu? Nhiều ngân hàng giảm lãi suất tại kỳ hạn trung và dài. Các điều kiện và chương trình hưởng lãi suất cao được bỏ ở một số đơn vị. Số ít nhà băng tăng lãi suất và tiếp tục giữ trên 8%/năm để thu hút vốn. NCB vươn lên dẫn đầu ở kỳ hạn 36 tháng. Theo thống kê của Người Đồng Hành,...