Doanh nghiệp ngành thép: Biên lợi nhuận giảm
Kết quả kinh doanh trong hơn 1 năm gần đây của các doanh nghiệp thép niêm yết cho thấy hầu hết đang trong đà giảm biên lợi nhuận.
Là doanh nghiệp lớn và có biên lợi nhuận cao nhất ngành, song Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát (HPG) cũng đang phải chứng kiến đà giảm.
Biên lợi nhuận gộp của một số doanh nghiệp.
Chưa có số liệu quý III/2018, song từ quý III/2017 tới quý II/2018, biên lợi nhuận gộp của HPG giảm gần 2,4%, từ 22,58% xuống 20,2%; biên lợi nhuận ròng giảm hơn 2%.
Tương tự, trong 4 quý gần nhất, Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (HSG) có biên lợi nhuận gộp giảm 6,3%, từ 16,3% xuống 10%.
Trên thực tế, đa số doanh nghiệp ngành thép vẫn đạt được sự tăng trưởng doanh thu. Tuy nhiên, giá vốn tăng cao là lý do khiến biên lợi nhuận dần đi xuống.
Chẳng hạn, Công ty cổ phần Thép Pomina (POM) trong quý III/2018 đạt doanh thu 3.470 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2017. Nhưng giá vốn tăng 16%, chiếm 3.354 tỷ đồng, khiến lợi nhuận gộp chỉ còn 116 tỷ đồng. Biên lãi gộp tương ứng là 3,3%.
Các loại chi phí của POM đều tăng: chi phí tài chính tăng 17%, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lần lượt tăng 11% và 19,7%. Bên cạnh đó, Công ty lỗ hơn 1,9 tỷ đồng từ hoạt động khác. Kết quả, lợi nhuận sau thuế của POM chỉ còn 27,1 tỷ đồng, giảm 89% so với cùng kỳ năm ngoái; biên lợi nhuận ròng là 0,8%, giảm mạnh so với cùng kỳ cũng như các quý liền trước.
Doanh thu tăng trưởng nhưng lợi nhuận giảm mạnh cũng là tình trạng của Công ty cổ phần Thép Dana – Ý (DNY), bởi giá vốn tăng mạnh. Quý III/2018, biên lãi gộp của công ty này là 5,89%, giảm gần 4% so với cùng kỳ năm 2017.
Video đang HOT
Trong khi các doanh nghiệp lớn vẫn giữ được mức lợi nhuận “kha khá”, thì ở một số doanh nghiệp thép khác, tình trạng thua lỗ chưa dừng lại.
Tại Công ty cổ phần Thép Việt – Ý (VIS), Công ty lỗ ròng hơn 64 tỷ đồng trong quý III/2018. Đáng chú ý, giá vốn tăng lên 1.207 tỷ đồng, cao hơn cả doanh thu, khiến VIS lỗ gộp 25 tỷ đồng. Đây là quý thứ hai thua lỗ của VIS. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2018, VIS ghi nhận lỗ 130 tỷ đồng.
Hay như ở Công ty cổ phần Hữu Liên Á Châu (HLA), doanh nghiệp này tiếp tục báo lỗ trong quý III năm tài chính 2018 (tức quý I/2018), kéo dài chuỗi thua lỗ theo quý kể từ quý III năm tài chính 2013.
Ngoài các yếu tố nội tại thì các doanh nghiệp thép đang chịu ảnh hưởng lớn từ giá nguyên vật liệu thô như quặng sắt và than cốc có diễn biến tăng mạnh kể từ đầu năm.
Giá nguyên liệu sản xuất thép năm 2018 .
Nhu cầu quặng sắt trên thị trường tiếp tục tăng cao. Giá quặng sắt loại 62% FE ngày 7/10 ở mức 69 – 70 USD/tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, tăng khoảng 7 USD/tấn so với đầu tháng 7/2018. Giá than hiện khoảng 17.500 – 18.000 USD/tấn. Các nguyên liệu sản xuất thép khác có diễn biến giá đi ngang trong quý III/2018, trước đó có xu hướng tăng kể từ tháng 4/2017.
Nhìn chung, các doanh nghiệp ngành thép vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Công ty Chứng khoán Bảo Việt đánh giá, triển vọng mảng tôn mạ và ống thép không khả quan, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2018.
Hàng loạt dự án tôn mạ mới hoàn thành trong giai đoạn 2017 – 2018 khiến nguồn cung tôn mạ trong nước tăng mạnh.
Tổng công suất tôn năm 2018 ước đạt 8 triệu tấn, trong khi tiêu thụ của các doanh nghiệp tôn (bao gồm cả xuất khẩu và nội địa) chỉ đạt khoảng 4 – 5 triệu tấn.
Đáng chú ý, việc gia tăng công suất trong năm 2017 – 2018 chủ yếu đến từ các doanh nghiệp có thị phần lớn, mức cạnh tranh khá khốc liệt để giữ được thị phần và đẩy mạnh tiêu thụ thông qua chiết khấu, giảm giá bán…
Trong khi đó, thị trường xuất khẩu liên tục bị kiện chống bán phá giá và thị trường trong nước vẫn bị đe dọa bởi tôn mạ nhập khẩu, mặc dù đã áp thuế chống bán phá giá. Tăng trưởng tiêu thụ ống thép cũng chậm lại trong năm 2018. Tổng sản lượng tiêu thụ cả ngành trong 8 tháng đầu năm 2018 tăng 9%, thấp hơn mức tăng bình quân 30%/năm trong 4 năm gần nhất.
Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, trong 8 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm trong 8 tháng đầu năm 2018 của cả nước đạt hơn 5 triệu tấn, trị giá 3,705 tỷ USD, tăng 30,8% về lượng và tăng 42% về giá trị xuất khẩu so với cùng kỳ năm ngoái. ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu chính, với lượng xuất khẩu thép thành phẩm 2,331 triệu tấn, chiếm 57,6%.
Nhập khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm các loại trong 8 tháng đầu năm là 10,529 triệu tấn, trị giá 8,233 tỷ USD, giảm 16,5% về lượng và giảm 22% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên Minh
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Nhận diện thách thức
Thị trường bất động sản đã trải qua hơn 3/4 chặng đường năm 2018 trong bối cảnh kinh tế nước nhà tiếp tục có nhiều khởi sắc. Nhưng như một câu nói vui: "Chúng ta chỉ biết chắc về những thứ đã qua, còn tương lai, mọi dự đoán chỉ như một bản tin dự báo thời tiết", còn quá sớm để lạc quan về thị trường bất động sản 2019 và xa hơn.
Bất động sản rõ ràng là một "hàn thử biểu" của nền kinh tế, bởi chỉ vướng một chút e ngại, lăn tăn về khả năng bị ảnh hưởng thu nhập trong tương lai là người dân sẽ cân nhắc lại quyết định mua nhà.
Trong một bình diện rộng hơn, mới đây, ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2018 đạt được trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn dễ bị tác động bởi các thách thức trong và ngoài nước.
Tăng trưởng giảm nhẹ ở các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Nhật Bản có thể ảnh hưởng đến tổng cầu thương mại thế giới. Căng thẳng thương mại leo thang toàn cầu cũng có thể tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu và dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Với nguồn dữ liệu và kinh nghiệm phân tích diễn biến kinh tế thế giới, ADB đã điều chỉnh lạm phát của Việt Nam lên 4% trong năm 2018 và 4,5% cho 2019, tăng so với ước tính trước đó (tương ứng là 3,7% và 4%).
Phía ADB cũng cho rằng, nếu căng thẳng thương mại leo thang gây tác động đáng kể đến thương mại, phá vỡ mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu, triển vọng tăng trưởng của Việt Nam sẽ bị tác động xấu. Những diễn biến như vậy không chỉ ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu, mà còn kìm hãm FDI. Tình hình biến động gia tăng trên thị trường tài chính quốc tế cũng là một rủi ro.
Đồng quan điểm, trong một trao đổi mới đây với người viết, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng, dù có triển vọng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng năm 2018, nhưng không thể xác định rằng năm 2019 vẫn tiếp tục "xuôi chèo mát mái".
Theo ông Châu, lạm phát sẽ là thách thức không nhỏ. Và việc kinh tế Việt Nam hội nhập sâu vừa đáng mừng, nhưng cũng hàm chứa nhiều thử thách.
Chúng ta đang nói nhiều về chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, bất đồng trong kinh doanh giữa Mỹ và các nền kinh tế lớn khác.
Đặc biệt, đang nhìn nhận rất tích cực về triển vọng phát triển các phân khúc bất động sản công nghiệp, văn phòng cho thuê, căn hộ dịch vụ để đón làn sóng dịch chuyển của các tập đoàn đa quốc gia rời khỏi Trung Quốc và cả của chính các doanh nghiệp từ nước này.
Tuy nhiên, chúng ta lại chưa đề cập nhiều đến các rủi ro có thể xảy đến.
Vị Chủ tịch HoREA cho rằng, với nền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn. Họ chỉ cần "hắt hơi", "sổ mũi" là ta đã bị ảnh hưởng. Do đó, cần phải tiếp tục quan sát kỹ diễn biến chiến tranh thương mại.
Chúng ta phải đề phòng việc Trung Quốc dùng các biện pháp tự vệ để bảo vệ nền kinh tế và điều đó ảnh hưởng tới Việt Nam ra sao. Ví dụ như việc đánh sụt giá đồng Nhân dân tệ để đối phó với trừng phạt thương mại từ phía Mỹ. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới kinh tế Việt Nam và thị trường bất động sản cũng không là ngoại lệ.
Chỉ trong chưa đầy 1 tháng, HoREA liên tiếp phát hành 2 công văn có nội dung gần như ngược nhau, liên quan đến kiến nghị Ngân hàng Nhà nước về việc sử dụng tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn trong năm 2019.
Cụ thể, Công văn số 117/CV-HoREA ngày 29/9/2018, HoREA kiến nghị áp dụng mức 45%; đến ngày 12/10/2018, sau khi có cuộc làm việc với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, HoREA đã phát hành tiếp Công văn số 124/CV-HoREA, đề xuất giữ nguyên lộ trình siết tín dụng do Ngân hàng đề ra trước đó (áp dụng tỷ lệ tối đa là 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn trong năm 2019).
Theo lý giải của ông Châu, việc phát hành liên tiếp hai văn bản thay đổi mức đề xuất đến từ việc nhận thấy sự cần thiết của việc siết tín dụng và trên cơ sở phân tích các diễn biến chung của kinh tế thế giới, để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, an toàn hệ thống tín dụng, giảm dần sự phụ thuộc của thị trường bất động sản vào nguồn tín dụng ngân hàng, tạo áp lực có tính tích cực, để thị trường và các chủ đầu tư phát triển lành mạnh, bền vững hơn.
Thành Nguyễn
Báo Đầu tư Bất động sản
Xu thế dòng tiền: Nguy cơ thủng đáy có cao? Thị trường biến động mạnh trong tuần qua nhưng chỉ số VN-Index vẫn chưa xuống thấp hơn mức đáy tháng 7... Thị trường biến động mạnh trong tuần qua nhưng chỉ số VN-Index vẫn chưa xuống thấp hơn mức đáy tháng 7. Các chuyên gia vẫn không thống nhất liệu mức đáy này có giữ được hay không. Quan điểm khá tích cực...