Doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay kích cầu
Dù Chương trình kích cầu đầu tư của UBND TPHCM đã triển khai qua hơn 3 năm, nhưng số lượng doanh nghiệp (DN) tiếp cận được nguồn hỗ trợ còn rất khiêm tốn. Quy định của chương trình này quá chặt chẽ, trong khi tiềm lực DN còn non yếu khiến hai bên không thể gặp nhau.
Rất ít DN có thể tiếp cận
Nhằm hỗ trợ DN thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT), nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, gia tăng giá trị và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghệ, góp phần phát triển ngành công nghiệp thành phố; tăng khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước, UBND TPHCM đã ban hành Quyết định 15/2017/QĐ-UBND (Quyết định 15) trên cơ sở kế thừa Quyết định 50/2015/QĐ-UBND (Quyết định 50) về việc thực hiện Chương trình kích cầu đầu tư của TPHCM.
Trong đó, cụ thể hóa việc hỗ trợ kích cầu đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp và CNHT, danh mục các dự án thuộc 4 ngành công nghiệp trọng yếu, bao gồm: Cơ khí (17 danh mục); hóa chất nhựa, cao su (10 danh mục); chế biến lương thực – thực phẩm (2 danh mục); điện tử – công nghệ thông tin (14 danh mục) và 2 ngành truyền thống dệt may (5 danh mục), da giày (2 danh mục).
Sản xuất cơ khí – ngành được vay kích cầu (Ảnh sản xuất khuôn mẫu cơ khí chính xác) Ảnh: CAO THĂNG
Đồng thời, chương trình này hỗ trợ lãi suất từ ngân sách thành phố, áp dụng cho các dự án đáp ứng đủ điều kiện và được UBND TPHCM phê duyệt hỗ trợ lãi suất. Mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa 70% vốn đầu tư xây dựng cơ bản, 85% vốn công nghệ và thiết bị, đồng thời không quá 200 tỷ đồng cho một dự án.
Tính đến nay, kể cả trong quá trình chuyển tiếp giữa 2 quyết định nêu trên, TPHCM đã duyệt 12 dự án CNHT được vay vốn theo chương trình kích cầu với tổng vốn vay được hỗ trợ lãi suất là 545,5 tỷ đồng. Đây được đán.h giá là một tỷ lệ khá ít và các dự án này đều là những DN lớn. Trong khi đó, có tới 95% DN CNHT có quy mô nhỏ, đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ kích cầu.
Video đang HOT
“DN chúng tôi luôn mong muốn mở rộng sản xuất và tăng trưởng để có cơ hội tiếp cận những đơn hàng lớn, nhưng nguồn vốn bị hạn chế, hầu như huy động vốn từ gia đình và các nguồn khác bên ngoài với lãi suất cao để duy trì hoạt động. Việc tiếp cận khoản vay hỗ trợ kích cầu của thành phố gần như bế tắc, bởi khó khăn lớn nhất khi vay vốn tại ngân hàng là không có tài sản đảm bảo, do DN mới thành lập, quy mô còn nhỏ”, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Hoàng Thịnh (quận Bình Tân), chuyên sản xuất nguyên phụ liệu dệt may cho biết.
Theo Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Cơ khí – Điện TPHCM (Hamee) Đỗ Phước Tống, ngoài quy mô nhỏ, thiếu tài sản thế chấp, DN muốn vay được vốn hỗ trợ kích cầu còn phải làm thêm các thủ tục điều chỉnh danh mục đầu tư rất khó khăn, phức tạp và mất nhiều thời gian.
Do đó, TPHCM cần sớm sửa nội dung trong quy định hiện hành về thực hiện Chương trình kích cầu đầu tư để DN có thể dễ dàng, nhanh chóng tiếp cận được nguồn vốn nhằm mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
DN chủ động nguồn vốn vay
Nhiều DN nghiệp còn cho biết, không chỉ khó tiếp cận nguồn vốn vay hỗ trợ kích cầu của thành phố, mà gần đây chương trình này hầu như “án binh bất động”, không thể nộp hồ sơ được. Giải thích về nguyên nhân tình trạng này, đại diện Trung tâm Phát triển CNHT TPHCM cho biết do phải điều chỉnh lại một số nội dung liên quan trong quyết định, như loại bỏ hoặc bổ sung thêm danh mục một số sản phẩm được hỗ trợ.
Mặt khác, theo nguyên tắc, việc ban hành quyết định hỗ trợ của chương trình đang triển khai phải được HĐND TPHCM thông qua mới được sử dụng nguồn chi từ thành phố hỗ trợ cho DN. “Đầu tháng 10 vừa qua, HĐND TPHCM đã thông qua Nghị quyết 16/2018/NQ-HĐND quy định về kích cầu đầu tư trong lĩnh vực CNHT của thành phố giai đoạn 2018-2020.
Ngay sau đó, UBND TPHCM ban hành Quyết định 4898/UBND-KT về việc triển khai Nghị quyết 16. Hiện chúng tôi đang phối hợp với các đơn vị liên quan để thống nhất cách thức triển khai và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trên tinh thần của Nghị quyết 16, hiện nay các DN có nhu cầu liên hệ bộ phận một cửa của Sở Công thương để nhận và nộp hồ sơ bình thường”, đại diện Sở Công thương TPHCM thông tin.
Trao đổi về nguyên nhân khiến các DN khó tiếp cận nguồn vốn vay hỗ trợ kích cầu, đại diện Sở Công thương TPHCM cho rằng vừa qua nhiều DN đã hiểu chưa đúng về tinh thần của Quyết định 15, nhầm tưởng UBND TP hỗ trợ cho vay vốn.
Thực chất, UBND TP chỉ bù lãi vay kích cầu, còn DN phải tự liên hệ với ngân hàng để vay vốn. Khi được 1 trong 4 ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM (trong Quy định về kích cầu đầu tư) đồng ý cho vay, DN hoàn chỉnh hồ sơ nộp về Sở Công thương để xét duyệt. Nếu hồ sơ đạt yêu cầu, UBND TP sẽ bù lãi vay cho DN, thời gian được tính từ khi ngân hàng giải ngân vốn.
“Tuy nhiên trên thực tế, DN luôn bị gặp khó khăn từ phía ngân hàng khi đi vay vốn do thiếu tài sản thế chấp, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Mặt khác, một phần do các DN chưa chủ động, ngại làm thủ tục, hồ sơ vay vốn kích cầu. Để tạo điều kiện cho DN có thể khơi thông bế tắc khi làm hồ sơ tiếp cận nguồn vốn vay cấp bù lãi suất kích cầu, hiện Sở Công thương ngoài phát hành hồ sơ, nếu DN có nhu cầu về thủ tục sẽ được các bộ phận chuyên môn của sở hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề là DN phải chứng minh được năng lực để ngân hàng đồng ý cho vay, bước kế tiếp mới đến UBND TP xem xét quyết định là có đủ điều kiện cấp bù lãi suất theo chương trình kích cầu hay không”, đại diện Sở Công thương giải thích.
Theo Phụ lục Danh mục sản phẩm CNHT được hỗ trợ lãi vay trong quy định mới về kích cầu đầu tư, hầu hết các ngành đều tăng đáng kể. Trong đó, ngành cơ khí 28 sản phẩm; ngành điện, điện tử – công nghệ thông tin 17 sản phẩm; ngành hóa chất nhựa, cao su 6 sản phẩm; ngành chế biến lương thực – thực phẩm 3 sản phẩm; ngành dệt may 7 sản phẩm; ngành da giày 5 sản phẩm.
LẠC PHONG
Theo sggp.org.vn
Quản trị nợ công: cần chặt chẽ hơn nữa!
Nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng chậm lại nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro vì các chỉ số nợ vẫn còn cao. Hiện Việt Nam chuẩn bị bước qua thời kỳ được hưởng các nguồn vốn vay giá rẻ, dần phải chuyển sang vay vốn với điều kiện thị trường thì việc quản trị nợ công cần được quản lý chặt hơn nữa.
Báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính cho biết, tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) tháng 10 ước đạt 113,8 nghìn tỷ đồng. Luỹ kế chi NSNN 10 tháng đạt 1.103,1 nghìn tỷ đồng, bằng 72,4% dự toán năm, tăng 9,4% so cùng kỳ năm 2017, trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 224,8 nghìn tỷ đồng, bằng 56,2% dự toán năm, tăng 17,1%; Chi trả nợ lãi đạt 87,96 nghìn tỷ đồng, bằng 78,2% dự toán năm, tăng 8,7%, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết; Chi thường xuyên đạt 768,4 nghìn tỷ đồng, bằng 81,7% dự toán năm, tăng 5,1%.
Cần đưa cơ cấu để nợ công nằm trong ngưỡng cho phép (Ảnh TL)
Bộ Tài chính cũng đặt ra nhiệm vụ trọng tâm trong tháng 11 là phải xây dựng Thông tư hướng dẫn mẫu biểu báo cáo phục vụ quản lý tài chính đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài. Cùng với đó là việc phải hoàn thành việc xây dựng chương trình quản lý nợ công trung hạn giai đoạn 2019 - 2021. Trong thời gian qua công tác quản lý nợ công cũng được ghi nhận với những kết quả nhất định. Theo đó đã giảm tốc độ tăng nợ công giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 18,1%/năm; 3 năm 2016-2018 tăng bình quân khoảng 10%/năm).
Song song với kết quả đạt được, một số thách thức cũng được đưa ra với công tác quản lý nợ công. Trong các năm 2017 và 2018, dư nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh, tiệm cận ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép (50% GDP), chủ yếu do nợ nước ngoài của các doanh nghiệp vay theo hình thức tự vay tự trả tăng đột biến. Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ so với thu NSNN có xu hướng gia tăng do các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trước đây đã đến giai đoạn trả nợ gốc; các khoản vay mới có điều kiện kém ưu đãi hơn. Giới chuyên gia cho rằng, vay nợ để chi cho đầu tư phát triển là một nhẽ, nhưng cần siết ở công đoạn quản lý chi, nhất là trong bối cảnh các dự án đầu tư làm ăn thua lỗ, thất thoát vốn nhà nước còn ở mức độ cao.
Trong các năm 2017 và 2018, dư nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh, tiệm cận ngưỡng an toàn cho phép (Ảnh TL)
Luật Quản lý nợ công năm 2017 có hiệu lực từ 1/7/2018 đã thể chế hóa yêu cầu đán.h giá tác động đối với các khoản vay mới lên nợ công. Theo đó, các đề xuất vay mới phải được xác định thành tố ưu đãi, cơ chế tài chính và đán.h giá tác động nợ công trước khi phê duyệt. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại nợ công, cơ cấu lại các khoản vay theo hướng tăng tỷ trọng vay trung cho biết cần phải cơ cấu lại nợ Chính phủ theo hướng kênh huy động vốn trong nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo. Đảo ngược cơ cấu nợ trong nước và ngoài nước của danh mục nợ Chính phủ, từ cơ cấu nợ trong nước/ngoài nước là 39%/61% năm 2011, chuyển thành 60%/40% năm 2018. Tập trung tăng tỷ trọng vay trung, dài hạn với lãi suất phù hợp.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ thực hiện việc đán.h giá tác động lên nợ công và khả năng trả nợ trong trung hạn theo quy định của Luật Quản lý. Vấn đề được đưa ra hiện nay là cần cân đối giữa vốn vay trong nước và vốn vay nước ngoài nhằm đạt được cơ cấu danh mục nợ công hợp lý. Bên cạnh đó phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kiểm soát chặt chẽ sử dụng vốn vay, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn để tạo nguồn trả nợ trong tương lai, gắn trách nhiệm sử dụng vốn vay nợ công với trách nhiệm giải trình; công khai minh bạch về nợ công. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, để khắc phục điểm yếu về quản lý nợ địa phương, cần thiết lập hệ thống thông tin, hài hoà hoá quy định từ trung ương đến địa phương để thống nhất cách thức quản lý.
Trong dài hạn, đại diện Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, trước tiên cần chuẩn hoá các quy trình quản lý nợ theo hướng chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch. Phải hiện đại hoá công tác quản lý nợ thông qua áp dụng tối đa công nghệ thông tin vào các công đoạn nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời, thuận lợi trong công tác quản lý.
Lam Giang
Theo congluan.vn
Hạn mức vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để đóng chi phí đi lao động ở nước ngoài Tôi xin hỏi, hạn mức, lãi suất vay, thời hạn vay, phương thức trả nợ vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để đóng chi phí đi lao động ở nước ngoài? Trả lời: Mức cho vay tối đa bằng 100% chi phí đi làm việc ở nước ngoài được ghi trong Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở...