Điều trị HIV cho phụ nữ mang thai
Những phụ nữ đang mang thai được xác định bị nhiễm HIV, thay vì chỉ được điều trị dự phòng lây truyền từ mẹ sang con nay sẽ được điều trị ARV ngay khi phát hiện có thai.
Nguyên tắc điều trị HIV cho phụ nữ mang thai
- Tùy thuộc vào thời điểm xác định HIV dương tính vào giai đoạn mấy của thai kỳ mà các bác sỹ sẽ có các chỉ định dự phòng phù hợp.
- Đối với phụ nữ mang thai khẳng định nhiễm HIV, khuyến cáo bắt đầu điều trị khi lượng tế bào CD4 xuống dưới ngưỡng 350/1ml máu không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng của bệnh nhân.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
- Thời điểm bắt đầu điều trị ARV ở phụ nữ mang thai không cần phụ thuộc vào tuổi thai, cần điều trị liên tục trong suốt quá trình mang thai, khi sinh và sau sinh, có nghĩa càng sớm càng tốt, sau khi bệnh nhân đủ tiêu chuẩn điều trị. Việc điều trị cần tuân thủ tuyệt đối theo y lệnh của bác sĩ.
Phác đồ điều trị
- Đối với phụ nữ mang thai có chỉ định điều trị ARV, phác đồ điều trị bậc một ưu tiên phải bao gồm AZT 3TC làm trụ cột. Các phác đồ thay thế được khuyến cáo bao gồm TDF 3TC (hoặc FTC) NVP và TDF 3TC (hoặc FTC) EFV.
(Trong đó: AZT (zidovudine), 3TC (lamivudine), NVP (nevirapine), EFV (efavirenz), TDF( tenofovir), FTC (emtricitabine): là viết tắt các tên thuốc điều trị ARV).
- Việc điều trị cần tuân thủ tuyệt đối theo y lệnh của bác sĩ vì các thuốc kháng virus có thể gây ra rất nhiều tác dụng phụ
Video đang HOT
Ảnh minh họa: Nguồn internet
- Trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm HIV đã được điều trị ARV, cần sử dụng NPV hàng ngày cho đến khi được 6 tuần tuổi (đối với trẻ bú mẹ). Sử dụng AZT hoặc NVP (đối với trẻ không bú mẹ).
- Phụ nữ mang thai nhiễm HIV chưa có chỉ định điều trị ARV, cần được dự phòng hiệu quả bằng ARV để ngăn chặn sự lây truyền HIV cho trẻ sơ sinh, ngay ở tuần thai thứ 14, hoặc càng sớm càng tốt khi bà mẹ đến khám ở giai đoạn muộn của thai kỳ, trong lúc chuyển dạ hoặc trong khi sinh
Tác dụng phụ của ARV và sự thay đổi trong khi có thai.
- Một số tác dụng của thuốc điều trị HIV rất giống những thay đổi có thể xảy ra trong thời kỳ có thai, ví dụ như cảm giác buồn nôn và ốm nghén, và nôn do ARV. Do vậy lại càng khó để khẳng định nguyên nhân của các triệu chứng này là ARV hay do thai nghén.
- Thiếu máu (lượng hồng cầu thấp): Có thể gây ra trạng thái mệt mỏi. Đây là tác dụng phụ rất phổ biến của cả AZT và thai nghén. Xét nghiệm máu đơn giản có thể xác định được điều này. Nếu bị thiếu máu có thể uống bổ sung viên sắt.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
- Tiểu đường: Khi mang thai, người phụ nữ có nguy cơ bị tiểu đường cao hơn. Phụ nữ đang dùng thuốc ức chế protease khi mang thai có nguy cơ bị biến chứng phổ biến này hơn. Lượng glucose phải được theo dõi chặt chẽ và sàng lọc tiểu đường khi có thai.
- Nhiễm acid lactic: Thai nghén có thể là một yếu tố nguy cơ khác nữa của việc tăng lượng acid lactic. Thông thường gan điều chỉnh được lượng acid này. Nhiễm acid lactic tuy hiếm gặp nhưng là một tác dụng phụ gây tử vong tiềm ẩn của chất đồng đẳng nucleosid. Sử dụng đồng thời d4T và ddl khi có thai đặc biệt có nguy cơ cao. Sự phối hợp này không được khuyến cáo trong thai kỳ.
Phụ nữ mang thai cần điều trị HIV sớm ngay từ khi phát hiện. Nếu được uống thuốc theo phác đồ điều trị sớm, có thể bảo đảm hiệu quả tối ưu trong việc giảm tỉ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con. Các nghiên cứu cho thấy, khi điều trị dự phòng bằng thuốc ARV, sinh nở an toàn và nuôi con an toàn, nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con chỉ còn 2%. Nhưng nếu không có các can thiệp giảm thiểu lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nguy cơ mẹ lây truyền HIV sang con có thể từ 25-40%.
Theo Cuasotinhyeu
Những nguy cơ của bệnh cường giáp đến phụ nữ mang thai
Cường giáp là bệnh không hiếm gặp ở các phụ nữ mang thai, tuy nhiên còn nhiều người, kể cả một số thầy thuốc còn chưa hiểu biết rõ về các nguy cơ cũng như cách thức theo dõi và điều trị căn bệnh này.
Sự thiếu hiểu biết đã khiến cho nhiều người quyết định sai lầm là bỏ thai khi biết mình bị bệnh cường giáp.
Mang thai và bệnh động kinhCúm, sốt khi mang thai Bệnh cường giáp là gì?
Cường giáp là một tình trạng mà trong đó tuyến giáp tạo ra quá nhiều hoóc môn thyroxine. Cường giáp có thể tăng tốc đáng kể sự trao đổi chất của cơ thể, làm giảm cân đột ngột, nhịp tim nhanh hoặc không đều, ra mồ hôi và căng thẳng hoặc khó chịu.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây cường giáp ở các phụ nữ có thai là bệnh Basedow. Các nguyên nhân gây cường giáp khác cũng có nhưng hiếm gặp hơn như bướu nhân độc tuyến giáp... Bên cạnh đó những người bị ốm nghén nặng và có nồng độ hCG cao cũng có thể gây cường giáp thoáng qua.
Ảnh hưởng của bệnh cường giáp với thai phụ
Bệnh Basedow có thể xuất hiện hoặc nặng lên (ở người đã có bệnh Basedow cũ) trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Bên cạnh các nguy cơ cổ điển của cường giáp như suy tim, loạn nhịp tim, lồi mắt... nếu không được điều trị tốt thì các thai phụ mắc bệnh cường giáp có thể bị sảy thai sớm hoặc các biến chứng nặng khác như nhiễm độc thai nghén, sản giật.
Ngoài ra, những phụ nữ có thai khi mà bệnh Basedow của họ vẫn đang tiến triển nặng thì có nguy cơ rất cao bị cơn cường giáp cấp hay còn gọi là cơn bão giáp với tỷ lệ tử vong cao. Trong 3 tháng cuối của thai kỳ, mức độ cường giáp thường có giảm nhưng bệnh sẽ lại nặng lên sau đẻ. Với những phụ nữ bị bệnh Basedow muốn có thai thì tốt nhất là hãy đợi đến khi điều trị khỏi bệnh.
Tuy nhiên nếu trong khi đang điều trị bệnh mà họ có thai ngoài ý muốn thì hoàn toàn có thể giữ được thai, điều quan trọng là họ phải đi khám ngay chuyên khoa nội tiết để có được lời khuyên tốt nhất. Những trường hợp muốn bỏ thai khi đang bị cường giáp nặng thì nên điều trị cường giáp cho tới khi tạm ổn định mới được phép bỏ thai để hạn chế các biến chứng, nhất là cơn cường giáp cấp.
Ảnh hưởng của bệnh cường giáp với thai nhi
Sự phát triển của thai nhi ở các bà mẹ bị bệnh cường giáp có thể bị ảnh hưởng do 3 cơ chế sau:
- Cường giáp ở người mẹ không được kiểm soát tốt, nồng độ các hormon tuyến giáp trong máu người mẹ cao, hậu quả là nồng độ tuyến giáp trong thai nhi cũng cao và làm tăng nhịp tim thai, thai nhi nhẹ cân so với tuổi, đẻ non, thai chết lưu. Khả năng cường giáp gây dị tật cho thai có thể xảy ra. Đó chính là một nguyên nhân quan trọng giải thích tại sao phải bắt buộc điều trị và kiểm soát được tình trạng cường giáp ở người mẹ.
- Nồng độ globulin miễn dịch kích thích tuyến giáp rất cao trong máu. Các kháng thể này có vượt qua hàng rào nhau thai và kích thích tuyến giáp của thai nhi gây ra cường giáp thai nhi, và hậu quả cũng làm thai nhi bị nhẹ cân, tim đập nhanh và có nguy cơ bị đẻ non...
- Ở những người mẹ bị Basedow được điều trị thuốc kháng giáp tổng hợp như methimazole, carbimazole, thyrozole hay propylthiouracil (PTU). Các loại thuốc này đều qua được nhau thai với mức độ khác nhau và có thể ức chế hoạt động tuyến giáp, dẫn đến sự hình thành bướu giáp ở thai nhi. Dựa trên kết quả các nghiên cứu, PTU là thuốc thường được lựa chọn để điều trị cường giáp ở phụ nữ có thai vì nó qua nhau thai ít hơn so với các thuốc khác. Theo các khuyến cáo, chỉ sử dụng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp ở liều thấp nhất có hiệu quả để hạn chế ảnh hưởng đến thai nhi.
Khi thai phụ đã có tiền sử bị cường giáp hoặc phát hiện bệnh khi mang thai thì điều quan trọng nhất là phải nhận được sự chăm sóc về y tế càng sớm càng tốt. Khi mang thai mà không chú ý điều trị thì bệnh dễ tiến triển nặng có nguy cơ gây ra các cơn cường giáp cấp (gọi là bão giáp) gây tử vong cho người mẹ là khác cao. Vì vậy thai phụ có bệnh cần phải khám thai thường xuyên và phải có sự giám sát của cả bác sĩ sản khoa và bác sĩ điều trị ung bướu, nội tiết.
Theo Cuasotinhyeu
Những loại trà không nên dùng khi mang thai Một số loại thảo mộc nếu uống nhiều có thể kích thích tử cung và vô tình gây ra sẩy thai hoặc các cơn co dạ con. Các loại thảo dược vốn vẫn được coi là một dạng thuốc, có tác dụng như thuốc chữa bệnh. Nhưng các loại thảo dược này chưa được nghiên cứu đầy đủ về tác dụng của chúng...