Điều chỉnh Thông tư 07/2014/TT-NHNN: Cú hích để kích tín dụng
Từ ngày 17/3 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 2 lần giảm lãi suất nhưng lãi suất cho vay vẫn cao quá khả năng hấp thụ vốn tín dụng. Rào cản giảm sâu lãi suất cho vay là lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên đang điều chỉnh bởi Thông tư 07/2014/TT-NHNN. Theo NHNN, do tác động của dịch Covid-19 nên tính đến 29/5 tín dụng chỉ tăng 1,96% so với cuối năm 2019, bằng 34% so với cùng kỳ năm 2019.
Hoạt động nghiệp vụ tại VPBank chi nhánh Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
Nghịch lý ngân hàng thừa vốn
Do tác động của dịch Covid-19 còn nặng nề nên khả năng hấp thụ vốn tín dụng của nền kinh tế đang trong trạng thái rất yếu. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đang rất khó khăn tăng trưởng tín dụng theo kế hoạch đầu năm. Trong khi tín dụng tăng tụt lùi thì huy động t.iền gửi của các NH vẫn tăng nhanh. Theo số liệu của NHNN tính từ đầu năm đến ngày 20/5 huy động t.iền gửi bình quân đạt hơn 1.160 tỷ đồng/ngày, trong khi số t.iền cho vay bình quân chỉ đạt 773 tỷ đồng/ngày. Tức tỷ lệ vốn huy động đọng tại hệ thống NH chiếm hơn 33,3%.
Thực tế cho thấy, lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên đang hết sức hấp dẫn, nên lượng t.iền tiết kiệm vẫn chạy vào NH nhiều. Không ít NH đang dư thừa vốn nhưng hàng ngày phải tiếp tục nhận t.iền gửi đều đặn bình thường vì NH không thể cắm biển thông báo ngưng/hạn chế nhận t.iền gửi. Chưa đến kỳ báo cáo bán niên độ 2020 nên khó xác định số lượng vốn đang đọng tại từng NH nhưng câu chuyện dư thừa vốn NH thể hiện rất rõ.
Thị trường “vay nóng” liên ngân hàng nhằm giúp các NH hỗ trợ thanh khoản lẫn nhau hiện lãi suất cho vay qua đêm đang có xu hướng tiệm tiến về mức dưới 0,2%/ năm, chứng tỏ nguồn cung quá dồi dào. NH thừa vốn nhiều nhưng NH thiếu vốn rất ít. Đây là chuyện chưa xẩy ra từ nhiều năm nay. Chẳng hạn cùng kỳ năm 2019 mức lãi suất này không có chuyện dưới 2%/năm.
Theo Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội tính từ đầu năm đến phiên 3/6 vừa qua đã đấu thầu thành công 60.243 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP), riêng trong tháng 5 là 18.392 tỷ đồng, tăng 510% so với tháng trước đó. Các thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu là các NH và một số Quỹ bảo hiểm. Do lượng vốn dư thừa từ NH nhiều nên lãi suất trúng thầu giảm sâu xuống mức từ 2,2 – 3,4%/năm với kỳ hạn từ 5 – 20 năm. Chuyện NH huy động vốn nhiều, không cho vay được, phải tăng cường đầu tư TPCP là chuyện bình thường. Nhưng nghịch lý ở chỗ, NH thừa vốn đầu tư TPCP có mức lãi suất rất thấp nhưng lãi suất mà DN và người dân vay NH vẫn rất cao, gấp 2 đến trên 3 lần.
Video đang HOT
Cũng theo số liệu từ Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, trong 5 tháng đầu năm các DN đã huy động thành công hơn 91.616 tỷ đồng thông qua phát hành trái phiếu riêng lẻ. Con số này riêng tháng 5 là 27.060 tỷ đồng, trong đó đầu tư từ NH chiếm 42,54%. Một số DN phát hành trái phiếu có mức lãi lên 14 – 19,5%/năm, cao gấp 2 – 2,4 lần lãi tiết kiệm cùng kỳ hạn nhằm hấp dẫn lôi kéo nhà đầu tư.
Điều đáng nói, các DN phát hành trái phiếu thuộc nhóm DN mà NH đã từ chối cho vay do bị “siết” tín dụng hoặc đang không đáp ứng điều kiện tín dụng. Thậm chí có DN báo lỗ quý 1 nhưng sang đầu quý 2 đã phát hành TP thành công do lãi suất quá hấp dẫn đã che khuất rủi ro. Nên nhớ đây là loại trái phiếu phát hành riêng lẻ điều chỉnh bởi Nghị định số 163/2018/NĐ-CP do DN tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm. Nên DN thua lỗ cũng đồng nghĩa nhà đầu tư rủi ro. Chính vì vậy, NH đẩy vốn đọng vào trái phiếu doanh nghiệp là tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Nguyên nhân dư thừa vốn của NH do cầu tín dụng của DN và người dân sau dịch Covid-19 đang rất thấp. Bài toán của NH lúc này là tìm cách kích cầu tín dụng để giải tỏa nguồn vốn dư thừa chứ không phải loay hoay giải pháp tìm cách tối ưu hóa thu nhập từ nguồn vốn này. Dĩ nhiên, kích cầu tín dụng là vấn đề vĩ mô điều hành t.iền tệ, phải được quyết định bắt đầu từ NHNN.
Cần gấp rút điều chỉnh Thông tư 07/2014/TT-NHNN
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh để ứng phó với dịch Covid-19, từ ngày 17/3 đến nay NHNN đã 2 lần quyết định hạ các lãi suất điều hành và lãi suất t.iền gửi không kỳ hạn, t.iền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng, điều chỉnh theo Thông tư 07/2014/TT-NHNN. Có thể nói mức lãi suất qua 2 lần NHNN quyết định giảm là đáng kể, giúp các NH chủ động hơn trong bảo đảm thanh khoản và có thêm dư địa giảm lãi suất cho vay.
Tuy nhiên cho dù lãi suất t.iền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng giảm tới 0,6%/năm, lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm 0,75%/ năm nhưng chi phí trả lãi bình quân của NH giảm không nhiều và không đồng đều giữa các NH. Điều này do hầu như các NH không giảm hoặc giảm không đáng kể lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. Trong khi nhóm các NH nhỏ nguồn t.iền gửi không kỳ hạn là không nhiều.
Nên biết việc hạ lãi suất t.iền gửi không kỳ hạn từ 0,8%/năm xuống còn 0,2%/năm tất yếu buộc chủ tài khoản phải tối ưu hóa lợi ích bằng cách khai thác triệt để t.iền gửi kỳ hạn chứ không để t.iền nhiều trên tài khoản thanh toán. Tương tự, việc hạ lãi suất t.iền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng đương nhiên nhà tiết kiệm sẽ tìm cách dịch chuyển dần dòng t.iền sang t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên để hưởng lãi cao. Điều đó cho thấy dư địa giảm lãi suất cho vay được tạo nên từ việc hạ lãi suất theo chủ trương của NHNN vừa qua chỉ rất hạn chế.
Chưa giảm sâu lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thì các NH không thể có dư địa lớn để giảm sâu lãi suất cho vay. Tuy nhiên rào cản lúc này là Thông tư 07/2014/TT-NHNN. Theo Thông tư, các NH được áp dụng lãi suất t.iền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên trên cơ sở cung cầu vốn thị trường. Cho nên việc NH giảm lãi suất t.iền gửi kỳ hạn 6 tháng trở lên hay không và mức độ giảm thế nào là quyền của từng NH.
Do lợi thế vững chắc tài chính hiện nhóm NH lớn gồm: Vietcombank, Vietinbank, Agribank và BIDV đã giảm lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng đến 36 tháng xuống còn 4,9 – 6,5%/năm, mức giảm từ 0,1%- 0,45%/năm. Trong khi nhóm NH nhỏ hầu như không giảm hoặc giảm không đáng kể. Một số NH đang có lãi suất t.iền gửi kỳ hạn rất cao, chẳng hạn SCB có lãi suất 8,25%/năm kỳ hạn 12 tháng và 8,35%/năm kỳ hạn 24 tháng; Eximbank có lãi suất 8,4%/năm kỳ hạn 24 tháng hoặc Sacombank có lãi suất 7,8%/năm kỳ hạn 24 tháng.
Đa số NH đang có lãi suất t.iền gửi kỷ hạn 12 tháng từ 7 – 7,8%/năm nên câu chuyện giảm sâu lãi suất cho vay phổ biến xuống khoảng 6 – 8%/năm chỉ là hô hào với nhau. Lãi suất cho vay trung hạn tại các NH cổ phần tư nhân đang phổ biến trên 10%/năm, chẳng hạn tại Eximbank là 11 – 12,5%/năm. Câu hỏi đặt ra tại sao các NH không hạ lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên khi quan hệ cung cầu vốn tín dụng đang cho thấy quá dư thừa vốn? Câu hỏi đó chỉ các NH mới trả lời một cách chính xác.
Kích cầu tín dụng là cấp thiết để hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Để giải bài này đòi hỏi các NH phải giảm sâu lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 6 tháng trở lên để có dư địa lớn giảm sâu lãi suất cho vay. Muốn vậy, NHNN phải điều chỉnh ngay Thông 07/2014/TT-NHNN. Theo đó, lãi suất t.iền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên cũng được NHNN quản lý như lãi suất t.iền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng, tức là NHNN sẽ quy định mức lãi suất tối đa (trần) theo yêu cầu điều hành chính sách t.iền tệ.
Chính phủ yêu cầu ngành ngân hàng phấn đấu tiếp tục giảm lãi suất cho vay
Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương xem xét các khoản vay cho cân đối ngân sách từ các tổ chức tài chính quốc tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội.
Theo Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3, do đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tăng trưởng kinh tế (GDP) quý I năm 2020 đạt 3,82%, mức tăng thấp nhất 10 năm qua, nhưng so với các nước trong khu vực và trên thế giới đây là mức tăng trưởng khá, thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước. Kinh tế vĩ mô giữ ổn định; lạm phát được kiểm soát;...
Trong thời gian tới, dịch bệnh COVID-19 dự báo còn diễn biến phức tạp, khó lường và tiếp tục ảnh hưởng bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Quan điểm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ là luôn coi sức khỏe, tính mạng của người dân là ưu tiên hàng đầu, quyết tâm ngăn chặn, kiểm soát không để dịch bệnh COVID-19 bùng phát; bảo đảm an sinh xã hội, nhu cầu sống tối thiểu của người dân, nhất là người nghèo, người yếu thế, người mất việc làm; tiếp tục kiên trì, nhất quán giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đồng thời tận dụng thời cơ, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện để phục hồi, bứt phá ngay sau khi dịch bệnh được khống chế.
Chính phủ yêu cầu các ngành, các cấp, các địa phương thực hiện nghiêm Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các chủ trương, biện pháp phòng, chống dịch COVID-19, nhất là các Chỉ thị số: 15/CT-TTg ngày 27/3/2020, 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19. Đồng thời khẩn trương thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội nêu tại Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 4/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, cơ quan quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực tiếp tục nắm chắc tình hình, chủ động phương án, kịch bản điều hành, kiểm soát chặt chẽ lạm phát theo mục tiêu đề ra, kiên quyết giảm giá thịt lợn, miễn giảm chi phí thủ tục hành chính để chia sẻ với người dân và doanh nghiệp, không tăng giá hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.
Riêng với lĩnh vực ngân hàng, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách t.iền tệ chủ động, linh hoạt, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ; chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 11/CT-TTg, phấn đấu tiếp tục giảm lãi suất cho vay; bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với nhu cầu vốn của nền kinh tế, trong đó tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các đối tượng chính sách, ưu tiên; đảm bảo thanh khoản cho nhu cầu tín dụng và thanh toán của người dân, doanh nghiệp; duy trì hoạt động giao dịch ngân hàng an toàn, thông suốt.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xây dựng các kịch bản phù hợp với diễn biến tình hình, có giải pháp ứng phó kịp thời, nhất là những giải pháp đột phá khi dịch bệnh được ngăn chặn; sớm trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự an toàn xã hội ứng phó dịch COVID-19.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất gói hỗ trợ tổng thể, trong đó bổ sung vốn đầu tư cho các dự án thiếu vốn, đầu tư cho các công trình xã hội, nhất là nhà ở xã hội. Khẩn trương thẩm định chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo quy định của pháp luật về đầu tư công, hoàn thành trước ngày 15/4/2020; trên cơ sở đó, Ủy ban Dân tộc khẩn trương tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, trình Chính phủ theo quy định .
Bộ Tài chính khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách giãn, hoãn, miễn, giảm các loại thuế, phí, lệ phí; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, đặc biệt chi thường xuyên, không bố trí chi cho các nhiệm vụ chưa thực sự cấp thiết, hạn chế chi tổ chức hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài; quản lý chặt chẽ dự phòng ngân sách nhà nước, ưu tiên cho công tác phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm đủ kinh phí phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương xem xét các khoản vay cho cân đối ngân sách từ các tổ chức tài chính quốc tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội. Chủ trì, phối hợp Ban Chỉ đạo 389 quốc gia và các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là đối với những mặt hàng phòng, chống dịch bệnh COVID-19....
Thanh Bình
Hơn 400 nghìn người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng vì Covid-19 được miễn, giảm lãi suất Tính đến 8/6/2020, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 249.108 khách hàng với dư nợ 172.365 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 403.177 khách hàng với dư nợ 1.227.349 tỷ đồng... Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa thông tin một số kết quả điều hành chính sách t.iền tệ và hoạt động...