Diếp cá có thể giảm triệu chứng và biến chứng của sởi
Suy dinh dưỡng và thiếu hụt các yếu tố vi lượng có khả năng làm tăng lây nhiễm và biến chứng của các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt với các bệnh liên quan đến virut như viêm gan B, C, cảm cúm thông thường và bệnh sởi.
Các nghiên cứu dịch tễ và nghiên cứu trên động vật thực nghiệm đã chứng minh rất rõ mối liên hệ này từ nhiều năm trước đây. Thiếu hụt các chất vi lượng và các chất chống ôxy hóa (trong chế độ dinh dưỡng) không những làm suy yếu sức đề kháng và khả năng chống đỡ với các bệnh virut thông thường mà còn làm tăng đột biến của chính virut gây bệnh dẫn tới các triệu chứng bệnh trầm trọng hơn và nhiều biến chứng nguy hiểm hơn cho người bệnh.
Diếp cá có thể giảm triệu chứng và biến chứng của sởi.
Dịch sởi hiện nay ở Việt Nam, ngoài yếu tố tiêm chủng và sự phát triển ngẫu nhiên của một chủng virut với khả năng lây lan và độc tính mạnh rất có thể liên quan đến những vấn đề thiếu hụt các chất vi lượng và vitamin có khả năng chống ôxy hóa trong thực phẩm dẫn tới sự suy giảm sức đề kháng của cơ thể.
Để giảm lây nhiễm, giảm các biến chứng nặng nề, đặc biệt là các biến chứng ở đường hô hấp ở bệnh nhân mắc bệnh sởi, giảm tử vong cho người bệnh cũng như hạn chế sự lặp lại của một đại dịch như hiện nay, ngoài việc chú trọng đến tiêm chủng và các biện pháp chữa bệnh mang tính đối phó với từng triệu chứng, chúng ta cần chú trọng vấn đề dinh dưỡng trong phòng bệnh và chữa bệnh.
Trong các yếu tố dinh dưỡng liên quan đến sự tăng lây nhiễm, tăng độc tính cũng như các biến chứng của các bệnh do virut như bệnh sởi, thiếu hụt selen trong thực phẩm đã được chứng minh rõ ràng nhất.
Selen có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sức đề kháng khỏe mạnh. Tác dụng của selen đồng hành với vitamin E, vitamin C, glutathione và vitamin B3 như những chất chống ôxy hóa mạnh giúp giảm bớt các tổn thương ở màng tế bào, chống viêm và chống độc tố của virut.
Chúng ta có thể bị thiếu selen trong cơ thể nếu uống nước và thực phẩm không chứa đủ lượng selen cần thiết. Điều này có thể do thổ nhưỡng không đủ selen dẫn tới sự nghèo nàn chất này trong thực phẩm cũng như trong nước uống. Việc sử dụng các loại nước đóng chai đã được khử trùng bằng clo là chất ôxy hóa mạnh, tất nhiên sẽ dẫn đến sự triệt tiêu của chất này trong nước uống. Chế biến thực phẩm bằng nhiệt độ cao (lò vi sóng) và sử dụng các thuốc kháng sinh, các thuốc chống viêm cũng dẫn đến sự giảm hấp thu selen trong cơ thể.
Video đang HOT
Bổ sung selen bằng cách ăn các loại thực phẩm giàu selen như các loại hạt dẻ, hạt hướng dương, các loại cá (đặc biệt là cá biển), thịt gà, trứng gà, các loại nấm ăn gạo lứt, các loại ngũ cốc toàn phần, hành và tỏi hoặc bổ sung bằng thuốc hoặc dưới dạng thực phẩm chức năng.
Ngoài selen, việc dùng vitamin C liều cao: trẻ em từ 200-500mg mỗi ngày, người lớn từ 500-2.000mg mỗi ngày cũng có thể mang lại lợi ích tương tự như selen. Trong trường hợp biến chứng nặng, có thể dùng vitamin C tiêm hoặc truyền tĩnh mạch.
Khi ở gia đình, bệnh nhân có thể dùng các dược thảo rất dễ kiếm và sử dụng của Việt Nam như xuyên tâm liên, diếp cá, tô mộc… cũng có thể giúp giảm triệu chứng, phòng và điều trị các biến chứng của bệnh sởi.
Suckhoedoisong
Các sai lầm hay gặp khi dùng thuốc
Có bệnh thì phải dùng thuốc, nhưng phải dùng đúng bệnh, đúng thuốc, đúng liều.
Nhiều người có thói quen tự ý dùng thuốc ngay cả khi chưa có bệnh hoặc không biết cách sử dụng thuốc. Khi đó, thuốc sẽ không phát huy được tác dụng chữa bệnh mà người sử dụng sẽ gặp những tác dụng phụ nguy hiểm của thuốc.
Không dùng thuốc corticoid tùy tiện.
Bôi thuốc mỡ chứa corticoid: chữa bách bệnh về da
Thuốc mỡ (dạng cream bôi) chứa corticoid là những chế phẩm có tác dụng nhanh trong điều trị một số bệnh ngoài da, sẩn ngứa, dị ứng, viêm da tiếp xúc, viêm da thần kinh... Thuốc được hấp thu nhanh, nhiều ở vùng da mỏng như: bẹn, bìu, hố nách, mặt cổ và da đầu. Được hấp thu ít là bôi ở vùng cẳng tay, đầu gối, khuỷu tay, lòng bàn tay. Qua da, lượng thuốc được hấp thu sẽ phân bố vào da, cơ, gan, ruột và thận.
Tuy thuốc mỡ corticoid có tác dụng tốt và nhanh nhưng không phải là thuốc chữa được "bách bệnh" về da. Mặt khác, thuốc còn có chống chỉ định trong một số trường hợp và có những tác dụng phụ, phản ứng quá mẫn như viêm da, ngứa, trứng cá đỏ, thậm chí có thể bị teo da, vết rạn, nhiễm khuẩn thứ phát...
Tác dụng phụ nguy hiểm nhất của corticoid bôi tại chỗ là gây teo da. Biến chứng này thường xảy ra sớm với các loại corticoid tác dụng mạnh như clobetasol propionate, fluocinolon acetonide... Trẻ em có nguy cơ teo da cao nhất. Dùng phối hợp với corticoid toàn thân hoặc tiếp xúc nhiều với ánh nắng sau thoa thuốc cũng làm tăng nguy cơ teo da.
Biểu hiện của teo da bao gồm các vết bầm tím, da trở nên bóng và có các khía. Khi dùng thuốc chỉ bôi một lớp mỏng thuốc lên vùng da bị bệnh, nếu bôi dày, bôi nhiều lần (hơn 3 lần/ngày), kéo dài (quá 1 tuần) thì dễ bị tác dụng phụ của corticoid và các thành phần phối hợp. Đối với một số người có cơ địa quá mẫn cảm, nếu bôi lâu ngày, nhất là ở vùng da mỏng (da vùng cổ, mặt, lòng trong cánh tay...) sẽ gây teo da, giãn mạch.
Việc lạm dụng thuốc mỡ corticoid trong thời gian dài còn bị phản tác dụng vì thuốc không ngăn ngừa được bệnh tái phát, mà khi tái phát, bệnh lại nặng hơn trước, cứ thế người bệnh luôn phụ thuộc vào thuốc. Ngoài ra, người ta còn thấy tác dụng chống viêm của các corticoid có thể bị giảm nhanh khi dùng nhắc lại.
Tuyệt đối không được bôi thuốc mỡ corticoid lên vùng da bị nấm (hắc lào, lang ben...) hay lên các vùng da tổn thương do virut (herpes, thủy đậu...) hoặc các vết thương hở đang có nhiễm khuẩn cấp tính sẽ làm bệnh nặng thêm và lan rộng.
Dùng thuốc nhỏ mắt để phòng bệnh
"Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng" - câu này nói lên sự khó chịu thế nào khi bị đau mắt. Vậy nên nhiều người khi thấy mắt có hơi chút lộm cộm là đi mua thuốc nhỏ mắt về dùng. Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc nhỏ mắt chứa nhiều hoạt chất khác nhau, để điều trị, chủ yếu có hai loại: thuốc chỉ chứa kháng sinh và thuốc kết hợp corticoid với kháng sinh.
Việc lạm dụng thuốc sẽ gây những hậu quả nguy hiểm, đặc biệt là loại thuốc kết hợp corticoid với kháng sinh. Trong thành phần thường có một kháng sinh là: polymyxin, neomyxin hoặc chloramphenicol (có tác dụng chống nhiễm khuẩn) và một thành phần là corticoid như dexamethason (có tác dụng chống viêm).
Khi tra, nhỏ các thuốc có chứa các thành phần trên sẽ nhanh chóng làm giảm đỏ mắt. Thuốc được sử dụng hiệu quả trong điều trị đau mắt đỏ và được dùng trong các bệnh như viêm kết mạc, viêm màng bồ đào, viêm bờ mi, viêm thượng củng mạc... Corticoid là chất kháng viêm rất mạnh, dùng đúng chỉ định sẽ có kết quả tốt trong điều trị. Còn sử dụng corticoid không đúng chỉ định sẽ gây biến chứng.
Thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid còn là loại thuốc có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm. Nghiêm trọng nhất là nếu sử dụng lâu dài có thể dẫn đến đục thủy tinh thể (với biểu hiện nhìn mờ, chói mắt khi ra trời nắng, thị lực giảm nhiều). Biến chứng đáng sợ của thuốc nhỏ mắt chứa corticoid là gây tăng nhãn áp, dẫn đến tổn thương thần kinh thị giác và gây giảm thị lực vĩnh viễn...
Dùng men vi sinh cùng thuốc kháng sinh
Kháng sinh đang là loại thuốc bị lạm dụng nhiều nhất hiện nay khiến cho vi khuẩn ngày càng nhờn và kháng lại kháng sinh. Điều này làm đau đầu các nhà quản lý và giới chuyên môn. Nhiều trường hợp tự mua kháng sinh về dùng như một biện pháp phòng bệnh. Bệnh chưa cần thiết phải dùng kháng sinh cũng uống kháng sinh. Uống kháng sinh không đủ liều...
Bên cạnh đó, một sai lầm rất dễ gặp khi dùng kháng sinh, đặc biệt là cho trẻ nhỏ là: dùng kháng sinh đồng thời với men vi sinh và sữa chua. Nhiều người cứ nghĩ rằng khi dùng kháng sinh phải dùng kết hợp chế phẩm vi sinh, sữa chua để phòng tránh táo bón do kháng sinh gây ra. Trong đơn thuốc, bác sĩ cũng kê chế phẩm vi sinh và kháng sinh cho người bệnh mà không dặn dò kỹ về thời điểm dùng hai loại thuốc này khiến nhiều người uống chế phẩm vi sinh đồng thời kháng sinh.
Cách dùng này không đúng vì khi vào cơ thể, kháng sinh sẽ tiêu diệt các loại vi khuẩn gây bệnh và tiêu diệt luôn cả vi khuẩn có lợi ở đường ruột. Chính vì vậy, khi dùng kháng sinh, cơ thể bị mất đi một lượng lớn vi khuẩn có lợi. Để giúp cân bằng lại hệ vi khuẩn đường ruột, cần bổ sung chế phẩm vi sinh hoặc sữa chua vào thời điểm khi đã hết một liệu trình uống kháng sinh, không uống cùng thời điểm dùng kháng sinh.
Vì trong khi kháng sinh đang tìm cách tiêu diệt vi khuẩn thì chế phẩm vi sinh lại "làm việc ngược lại" là cung cấp thêm lợi khuẩn cho cơ thể, làm cản trở quá trình tiêu diệt vi khuẩn của kháng sinh. Vì vậy, kháng sinh và chế phẩm vi sinh sẽ "công" nhau và làm giảm tác dụng của nhau.
Tóm lại, khi có bệnh, cần đi khám để được các bác sĩ chẩn đoán bệnh kê đơn thuốc, tuân theo chỉ dẫn trong đơn thuốc, tuyệt đối không được tự ý mua thuốc về dùng.
Theo DS. Trung Đức
Sức khỏe và Đời sống
Cách phân biệt thủy đậu và tay - chân - miệng Thủy đậu có biểu hiện bóng nước khá giống bóng nước của bệnh tay chân miệng, tuy nhiên vẫn có một số dấu hiệu đặc trưng để cha mẹ có thể nhận biết nhằm có hướng xử trí và điều trị kịp thời. Ảnh minh họa: Internet Thủy đậu là bệnh thường gặp ở trẻ em trong mùa đông - xuân. Bệnh do...