Điểm nhấn phát triển kinh tế Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XII
Thực tế thế giới và trong nước cho thấy, tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác các thành quả cách mạng khoa học công nghệ, hiện đại hóa cơ cấu và thể chế quản lý gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức phát triển chung của mọi quốc gia. Đây là một quá trình mở, được thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong bối cảnh các cơ hội và nguồn lực phát triển theo chiều rộng đã tới giới hạn, trong khi các yêu cầu và điều kiện phát triển theo chiều sâu đang ngày càng gia tăng áp lực.
Việc kéo dài cách thức đầu tư cũ, chậm đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với bối cảnh thị trường hiện đại sẽ không chỉ làm triệt tiêu động lực tăng trưởng trước đó, mà còn tích tụ thêm những xung lực tiêu cực từ giảm sút năng lực cạnh tranh và chất lượng môi trường sống, tăng nợ xấu và nợ công, bất bình đẳng xã hội và nguy cơ bùng phát những bất ổn cả về kinh tế và xã hội. Hơn nữa, tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng không thể là việc làm duy ý chí, phong trào, hình thức, bất chấp các hệ lụy và tác động hai mặt…
Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính KTTT của nền kinh tế Việt Nam được thống nhất khẳng định là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật và tuân thủ đúng quy trình của kinh tế thị trường, thì tính định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước lại được thể hiện ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và được bảo đảm bởi sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết hợp tất yếu của bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước trong một mô hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau những cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội liên tiếp xảy ra trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Sự kết hợp này vừa là mục tiêu, vừa là động lực gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; tạo môi trường thuận lợi cho phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức canh tranh, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước…
Vì vậy, Báo cáo cũng đã chỉ rõ, trong thời gian tới, quá trình tái cơ cấu, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam cần tiến hành theo hướng: Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ; nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Triển khai tái cơ cấu đồng bộ, tổng thể nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm, thị trường và các yếu tố sản xuất; tập trung tái cơ cấu đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân sách nhà nước; kiểm soát nợ xấu, nợ công, sở hữu chéo; Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ và tạo giá trị gia tăng cao, bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm; phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh; phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế, ưu tiên một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; phát triển mạnh kinh tế biển và các vùng kinh tế động lực, một số đặc khu kinh tế và ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng cao, vùng sâu, vùng xa và địa bàn khó khăn, dân tộc thiểu số…
Với những báo cáo và tham luận chính thức được thể hiện trong Đại hội XII, thông điệp nổi bật về đối ngoại và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời gian tới của Việt Nam là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,…
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý; phù hợp với lợi ích của đất nước.
Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác.
Video đang HOT
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và các lĩnh vực khác…
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đặc biệt, trong 5 đến 10 năm tới, Việt Nam sẽ nỗ lực đưa chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế theo chiều sâu, tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích, một cách lâu dài và bền vững giữa nước ta với các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta.
Thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp Việt Nam; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu; tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế trước những tác động từ bên ngoài; đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển nội lực và liên kết vùng trong cả nước.
Tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài; chủ động hơn trong việc nghiên cứu, chọn lựa các bộ tiêu chí, xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng và đồng thời tham gia xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực chung, góp phần nâng trình độ phát triển của nước ta trong các lĩnh vực này; phục vụ các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tạo dựng các mối quan hệ ổn định, lâu dài hơn với các đối tác, gia tăng tính ổn định, bền vững của môi trường chính trị, an ninh, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Để đạt mục tiêu trên, cần “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương; trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.
Tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao của các nước ASEAN.
Thực tế đang và sẽ tiếp tục ghi nhận động lực tăng trưởng kinh tế đất nước không chỉ là vốn đầu tư, mà ngày càng được tỏa ra từ sự cải thiện môi trường kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng chi phí tài chính và thể chế; đẩy mạnh tái cơ cấu, xã hội hóa và tự do hóa đầu tư, tham gia chuỗi liên kết và cung ứng giá trị sâu và vững chắc hơn, cũng như tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ thế giới, nhất là về quản trị rủi ro cao hơn.
Phát triển kinh tế biển, công nghiệp phụ trợ và cơ cấu kinh tế vùng; kiểm soát tốt an toàn tài chính vĩ mô, nợ công, nợ xấu, sở hữu chéo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; trọng dụng người hiền tài và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Đặc biệt, phải có những nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc hơn về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ sự phối hợp hài hòa bàn tay Nhà nước và bàn tay Thị truờng trong một mô hình Nhà nước kiểu mới; coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính hai mặt của các giải pháp chính sách, nhằm đa dạng hoá và phối hợp hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế, tăng cường dự báo, thông tin, bảo vệ người tiêu dùng và giữ vững lòng tin trên thị trường, uy tín quốc gia và niềm tin chiến lược quốc tế vào các đột phá thể chế Việt Nam bền vững và có tính hội nhập cao hơn…
TS. NGUYỄN MINH PHONG
Theo_Báo Nhân Dân
Thách thức trong hội nhập là vô cùng lớn
Theo ông Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay, Việt Nam gặp vô vàn thách thức và khó khăn, nhưng chúng ta phải tự tin, bởi không tự tin thì chắc chắn sẽ thua.
Việt Nam cần tự tin khi hội nhập
Tại Diễn đàn Hiệp định TPP Cơ hội và thách thức phát triển ngành công nghiệp Việt Nam diễn ra ngày 1/3, ông Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho biết, trải qua 25 năm qua Việt Nam đã thực sự có nhiều thay đổi. Trong đó, nếu nhìn hiện đại hoá, công nghiệp hoá thấy 3 thay đổi đó là, nền kinh tế hoàn toàn dựa vào nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; từ kinh tế khép kín sang "chơi" với tất cả không trừ một ai và nền kinh tế dựa chủ yếu vào kinh tế Nhà nước sang dựa chủ yếu hơn vào doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài.
Cũng theo ông Thành, cuộc sống đòi hỏi sản phẩm xanh, sạch hơn mà phải có những tiêu chuẩn thông lệ. Bên cạnh đó, công nghệ thay đổi mạnh, không chỉ làm năng suất, quản trị tốt hơn mà còn làm sản xuất kinh doanh thay đổi theo xu hướng lớn, to và cá thể hoá sản xuất kinh doanh. "Gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành Việt Nam hưởng lợi điển hình về mạng sản xuất và giá trị toàn cầu như dệt may, thuỷ sản, nông sản... Điều này tại sự dịch chuyển và cơ hội chưa từng có để cải tổ ngành công nghiệp Việt Nam, vì chỉ có ngành tạo công ăn việc làm mới có cơ hội hiện đại hóa nông nghiệp, tích tụ được đất đai", ông Thành nói.
Việt Nam gặp vô vàn thách thức và khó khăn, nhưng chúng ta phải tự tin, bởi không tự tin thì chắc chắn sẽ thua.Ảnh minh họa
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra, liệu Việt Nam có tận dụng được nó theo nghĩa hiện đại hoá hay không và một thực tế, doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được, trước khi không lớn lên được thậm chí còn có xu hướng cá thể hoá, li ti hoá?
Đưa ra nguyên nhân về việc tại sao doanh nghiệp Việt Nam vẫn không lớn lên được, nguyên Phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương cho rằng, có 3 nguyên nhân chính. Trong đó, Báo cáo Việt Nam 2035 vừa được Ngân hàng thế giới công bố là vấn đề quyền tài sản, vấn đề xử lý nợ xấu, quyền tài sản đối với tài sản thế chấp của ngân hàng và quyền tài sản của người đi thế chấp.
Một nguyên nhân nữa cũng được ông Thành chỉ ra đó là, cạnh tranh và tiếp cận công nghệ, vốn, đất đai.
Cuối cùng, ông Thành cũng chỉ ra, môi trường kinh doanh, với chi phí giao dịch và các loại thuế, phí của Việt Nam rất lớn ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo ông Thành, khó khăn và thách thức trong hội nhập là vô cùng lớn, nhưng chúng ta phải tự tin. "Chưa chơi mà đã không tự tin thì chắc chắn là thua, nhưng cần phải tự tin có cơ sở", ông Thành chia sẻ.
Doanh nghiệp cần chủ động để tránh rủi ro
Chia sẻ về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, ông Trần Hoài Nam Giám đốc Công ty Sao Nam cho biết, có một thực tế, hàng nước ngoài vào Việt Nam thì dễ, nhưng hàng Việt Nam ra nước ngoài rất khó. Nếu không có trung gian thì không thâm nhập được thị trường nước ngoài.
Đưa ra giải pháp để khắc phục vấn đề này, ông Nam kiến nghị, Nhà nước cần xây dựng chính sách, mở doanh nghiệp ở nước ngoài để doanh nghiệp Việt Nam cọ sát với thị trường, cũng như cập nhật thông tin thường xuyên giúp doanh nghiệp trong nước hiểu thêm về thị trường nước ngoài.
Theo ông Nam, nếu doanh nghiệp Việt Nam không nâng cao chất lượng hàng hóa, chứng minh được nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thỏa mãn điều kiện nhập khẩu và linh hoạt trong hình thức bán hàng, mà chỉ thụ động ngồi chờ nhà buôn nước ngoài vào mua hàng thì rủi ro doanh nghiệp Việt Nam phải chịu, còn lợi nhuận doanh nghiệp nước ngoài sẽ hưởng.
Liên quan đến vấn đề này, đại diện Hiệp hội doanh nghiệp Hà Nội chia sẻ, nói đến Hiệp định TPP thì thách thức mới lớn, còn cơ hội chỉ là cửa mở để chúng ta đi vào. "Tôi cho rằng, quan trọng nhất muốn để doanh nghiệp thành công trong sân chơi TPP cực kỳ khắc nghiệt, trước hết cơ chế chính sách nhà nước phải phù hợp", đại diện Hiệp hội doanh nghiệp Hà Nội nói.
Trong khi đó, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng, để thích ứng với xu thế hội nhập khi tham gia Hiệp định TPP cần có sự phối hợp giữa khu vực Nhà nước với doanh nghiệp để làm sao giải quyết khâu khó khăn, trở ngại liên quan các hàng rào phi thuế quan. Ngoài ra, cần thiết có quy hoạch và chính sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo cơ sở hoàn thiện cơ chế chính sách, đưa công nghiệp hỗ trợ trở thành ngành cần hỗ trợ, ưu tiên đầu tư phát triển.
Yến Nhi
Theo_VnMedia
'Con số thì đẹp nhưng nền kinh tế hiện không được như thế đâu!' 'Mặc dù các con số báo cáo thống kê thì đẹp nhưng thực chất của nền kinh tế Việt Nam hiện không được như những con số đó đâu', TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân hàng chia sẻ. Chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu. Trao đổi với báo, TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân...