Dịch vụ logistics – “mỏ vàng” chờ khai thác
Với vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế – xã hội của cả nước nói chung và đầu tàu của khu vực phía Bắc nói riêng, Hà Nội có đầy đủ điều kiện để xây dựng một mạng lưới dịch vụ logistic phát triển mạnh mẽ. Các chuyên gia cho rằng, đây chính là một “mỏ vàng” đang chờ Hà Nội khai thác.
Xuất khẩu hàng hóa tại Cảng Đình Vũ. Ảnh: Việt Linh
Tiềm năng quá lớn
Hà Nội có vị trí đắc địa, nằm giữa khu vực giao thương của vùng biển Đông Bắc, vùng núi phía Bắc; là cửa ngõ kết nối Việt Nam với các nước khu vực và thế giới. TP cũng có hệ thống giao thông hoàn chỉnh với cả đường không, đường bộ, đường sắt và đường thủy.
Hiện nay, Hà Nội đã có 9 khu công nghiệp đi vào hoạt động ổn định, thu hút trên 600 dự án đầu tư, với giá trị doanh thu sản xuất công nghiệp đạt bình quân trên 6 tỷ USD/năm; xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, Hà Nội đang xây dựng, phát triển 89 cụm công nghiệp, phân bố đều khắp trên địa bàn, tập trung chủ yếu ở các huyện: Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Thường Tín, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức…
Các khu, cụm công nghiệp là nơi tập trung cơ sở sản xuất, kinh doanh của khách hàng tiềm năng sử dụng dịch vụ logistics; là nơi tạo nên luồng hàng hóa quy mô lớn phục vụ xuất khẩu nên đã được bố trí tại các cửa ngõ TP, thuận tiện cho giao thông, vận chuyển hàng hóa.
Không chỉ công nghiệp, Hà Nội còn phát triển nông nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tất cả lĩnh vực này đều cần đến logistic như một bệ phóng trong thị trường cạnh tranh khốc liệt. Tiến sĩ kinh tế vận tải Nguyễn Văn Công nhận định, cùng với sự phát triển của kinh tế, khoảng cách trong các lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa, giá cả… ngày càng thu hẹp.
Các nhà sản xuất, xuất khẩu đã chuyển sang cạnh tranh về tốc độ giao hàng, hợp lý hóa và giảm thiểu chi phí của quá trình lưu chuyển hàng trong hệ thống quản lý phân phối. Vì vậy, logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển trở thành ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối của nền kinh tế.
Mặt khác, trong quy hoạch mới, Hà Nội được định hướng tập trung vào các ngành công nghệ cao bao gồm công nghệ thông tin, phần mềm, trung tâm dữ liệu, tự động hóa… Lĩnh vực kho bãi cũng là một lợi thế của Thủ đô khi được tập trung thành cụm ở xung quanh TP với quỹ đất lớn, giá rẻ và được kết nối tốt với các trung tâm công nghiệp phía Bắc như Bắc Ninh, Hải Phòng, Vĩnh Phúc…
Video đang HOT
Có thể thấy, vai trò của logistics là vô vùng quan trọng, vừa thúc đẩy giao thương hàng hóa, vừa tạo nên sức mạnh cho các DN của Hà Nội trong bối cảnh thị trường ngày càng năng động, cạnh tranh khốc liệt. “Hà Nội hiện nay đã hội tụ đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi để xây dựng, phát triển mạng lưới logistics hiện đại, đủ sức cung ứng và phụ trợ cho tất cả lĩnh vực kinh tế của TP” – TS Nguyễn Văn Công đánh giá.
Nhiều việc cần làm
Nhận thấy tiềm năng rất lớn xây dựng mạng lưới dịch vụ logistics, góp phần thúc đẩy toàn diện nền kinh tế, năm 2018, UBND TP Hà Nội đã thông qua Đề án “Quản lý và phát triển hoạt động logistics trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2025″. Theo Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội sẽ có hai trung tâm logistics lớn.
Tại cửa ngõ phía Bắc dự kiến hình thành Trung tâm logistics hạng I quy mô 50ha để kết nối, trung chuyển hàng hóa đi các khu vực khác (bằng đường không, đường bộ). Tại cửa ngõ phía Nam dự kiến hình thành Trung tâm logistics hạng II quy mô 22ha để hỗ trợ lưu thông hàng hóa cho các khu, cụm công nghiệp phía Nam Hà Nội.
Hà Nội hiện có khoảng 3.974km đường bộ; 90km đường sắt với 5 ga chính: Hàng Cỏ, Giáp Bát, Văn Điển, Gia Lâm và Yên Viên. TP còn có hệ thống sông với các sông lớn chảy qua như sông Hồng, sông Đà, Sông Đáy, sông Tích…; các tuyến sông do T.Ư quản lý dài 188km. TP cũng có 9 cảng sông có hệ thống kho bãi và công trình phụ trợ, gồm Khuyến Lương, Thanh Trì, Chèm, Phù Đổng, Đức Giang…; 17 bến thủy nội địa, 58 bến khách ngang sông.
Ngoài ra, Hà Nội còn có cửa khẩu hàng không quốc tế Nội Bài đang trong quá trình mở rộng quy mô. Tiến sĩ giao thông đô thị Đặng Minh Tân cho rằng: “Đây là “vốn liếng” chính để Hà Nội tạo dựng mạng lưới logistics phát triển. Tuy nhiên, việc kết nối vận tải đa phương thức giữa các loại hình vận tải vẫn chưa hiệu quả. Nối cách khác, mạng lưới logistics của TP vẫn còn rời rạc, chưa định hình cụ thể”.
Nhiều chuyên gia cho rằng, Hà Nội có đầy đủ các điều kiện, cả về chính sách, hạ tầng, nhân lực… Việc cần làm bây giờ là có “kịch bản” chi tiết để phát triển logistics. Đối với hạ tầng và các loại hình vận tải phải có sự liên kết chặt chẽ, nhân lực phải được đào tạo bài bản, chuyên sâu. Quan trọng hơn nữa là các chính sách thu hút đầu tư, quản lý lĩnh vực logistics phải tối giản và hấp dẫn được các DN.
Lãnh đạo UBND TP Hà Nội đã giao các sở, ngành chủ trì, thúc đẩy tăng cường hợp tác giữa các DN cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics trên địa bàn TP cũng như trong cả nước và quốc tế. Tạo điều kiện phát huy vai trò các hiệp hội ngành nghề liên quan đến dịch vụ logistics. Khuyến khích, thu hút các nhà cung cấp dịch vụ logistics lớn trên thế giới và các DN logistics trong nước đặt trụ sở, chi nhánh và văn phòng giao dịch tại Hà Nội nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm điều hành logistics của toàn bộ khu vực miền Bắc.
Các chuyên gia cũng cho rằng, Hà Nội cần tận dụng triệt để các thành tựu của khoa học hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin trong điều hành, quản lý dịch vụ logistics, vừa giảm thiểu chi phí đầu tư, vừa tăng cường tối đa hiệu quả kinh tế.
Dịch vụ logistics đang ngày càng trở nên quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế của mọi quốc gia. Gia tăng thương mại quốc tế là cơ hội để mở rộng thị trường, tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực, là điều kiện thuận lợi để logistics Hà Nội tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn.
Bên cạnh đó, với triển vọng phát triển và tốc độ tăng trưởng của ngành logistics khá cao, ở mức 20%/năm và được dự báo sẽ duy trì được trong 5 – 10 năm tiếp theo. Với tiềm năng và điều kiện vốn có, không ngoa khi nói Hà Nội đang có một “mỏ vàng” logistic chờ khai thác.
Theo quy định tại Luật Thương mại năm 2005, dịch vụ logistics là hoạt động thương mại. Theo đó, thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Hồi phục sau dịch: Ngành nào đi nhanh, ngành nào đi chậm?
Khi "bão" Covid-19 "quét" qua, cả nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại có mức độ khó khăn khác nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc phục hồi nhanh hay chậm sau khi dịch Covid-19 kết thúc.
Vẫn có doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội xuất khẩu trong dịch bệnh. Trong ảnh: Tập đoàn Hoa Sen xuất khẩu lô hà ng 10.000 tấn tôn đi Mexico vào đầu tháng 4/2020.
Công nghệ số hưởng lợi
Vào đầu tháng 2, khi dịch Covid-19 bùng phát tại Việt Nam, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán SSI đã nhận định, trong 23 nhóm ngành, các DN ngành dược phẩm, công nghệ thông tin, điện, nước sẽ nhận được tác động tích cực, còn lại sẽ chịu ảnh hưởng trung lập hoặc tiêu cực. Nguyên nhân bởi nhu cầu của thị trường trong ngắn hạn đối với các mặt hàng dược phẩm đều tăng cao, công nghệ thông tin lại càng được hỗ trợ khi được nhiều DN, người dân, tổ chức ứng dụng trong bối cảnh phải cách ly xã hội. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, hoạt động giao thương bị đình trệ, các quốc gia tạm thời đóng cửa biên giới đã khiến DN ngành du lịch, dịch vụ, nông lâm thủy sản, chế biến chế tạo... chịu ảnh hưởng nặng nề.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội DN vừa và nhỏ TP Hà Nội (Hanoisme):
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương phải đổi mới quyết liệt trong thực hiện thủ tục hành chính, giảm bớt những khâu phiền hà cho DN. Nền hành chính công vụ phải đáp ứng yêu cầu nhanh nhất cho DN nhằm phục hồi các dự án đã và đang dở dang. Về các chính sách thuế đất đai, cần thêm giải pháp hỗ trợ, miễn giảm cho DN nhỏ và vừa, cho vay vốn lưu động với mức lãi suất thấp hoặc 0%/năm... Với những hỗ trợ từ cơ quan quản lý và tự bản thân DN, thời gian phục hồi của DN và nền kinh tế sau đại dịch cần ít nhất là 24 tháng.
Sau 3 tháng Covid-19 hoành hành, bằng các biện pháp phòng chống dịch tích cực, cũng như các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ cùng nhiều tổ chức liên quan, dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát, nhiều DN đã tìm thấy cơ hội để sản xuất kinh doanh trong dịch bệnh, chủ động có kế hoạch phục hồi mạnh mẽ sau dịch.
Theo các chuyên gia và DN, "điểm sáng" phục hồi của ngành chế biến chế tạo là DN ngành thuốc và hóa dược. Số liệu cho thấy, sản lượng tiêu thụ quý I/2020 của ngành này đã tăng 27,3% so với cùng kỳ. Trái ngược với ngành may mặc, các công ty dệt có tình hình tích cực hơn với tăng trưởng sản lượng tiêu thụ 13% trong quý I. Với 60% vải nguyên liệu được nhập khẩu từ Trung Quốc, việc các nhà máy của nước này phải đóng cửa trong quý I đã khiến nhu cầu vải nguồn gốc trong nước tăng mạnh trong giai đoạn vừa qua. Hơn nữa, nhu cầu khẩu trang tăng đột biến khiến cho mặt hàng vải không dệt để sản xuất sản phẩm này cũng được tiêu thụ mạnh. Do đó, dự báo, các ngành này sẽ tiếp tục được hưởng lợi trong thời gian tới.
Tuy nhiên, lĩnh vực hưởng lợi nhiều nhất từ cơ hội "không mong muốn" này là công nghệ thông tin, các lĩnh vực áp dụng công nghệ số. Tiêu biểu như tại Tập đoàn FPT, dù ảnh hưởng từ dịch Covid-19, trong quý I, lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận sau thuế thuộc về cổ đông công ty mẹ đạt mức 937 tỷ đồng và 747 tỷ đồng, lần lượt tăng 18% và 19,3% so với cùng kỳ. Phát biểu về cơ hội sau dịch tại Đại hội cổ đông thường niên gần đây, Tổng giám đốc FPT Nguyễn Văn Khoa cho rằng, dịch Covid-19 đang mở ra rất nhiều cơ hội cho FPT từ hành vi của khách hàng, đến xu hướng chuyển đổi số của các DN. Các sản phẩm "Made by FPT" cũng đang được khách hàng đón nhận nhiệt tình theo dạng thuê dịch vụ, từ đấu thầu, xây dựng hệ thống theo yêu cầu sang hệ thống làm sẵn, cho thuê. Do đó, lãnh đạo Tập đoàn này tin tưởng FPT sẽ nắm bắt được các cơ hội một cách tối đa.
Đặc biệt, với ngành ngân hàng, công nghệ số cũng đang giúp ngành này vượt qua khó khăn trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng và huy động đều giảm thấp. Nếu như trước đây, ứng dụng mobile banking của các ngân hàng chỉ có một số giao dịch cơ bản, thì nay, các ứng dụng đã đáp ứng hầu hết nhu cầu giao dịch và thanh toán như: Gửi tiết kiệm, vay vốn online, thanh toán hóa đơn dịch vụ thiết yếu, gửi quà, mua voucher... Nhờ đó, lượng giao dịch qua ngân hàng số đã tăng lên đáng kể, như tại VPBank, kết thúc quý I, giá trị giao dịch qua các kênh số hóa đã tăng 25% và số lượng giao dịch tăng 50% so với cùng kỳ. Điều này không những giúp các ngân hàng duy trì được doanh thu từ mảng dịch vụ, mà còn là cơ hội để thay đổi thói quen người tiêu dùng, tăng doanh thu thời kỳ "hậu" Covid-19.
Tính toán lộ trình phù hợp
Theo các chuyên gia, việc phục hồi kinh tế cần tính toán lộ trình phục hồi các ngành khác nhau vào thời điểm phù hợp, với mức độ và phương án hợp lý, thậm chí có thể phải tính tới phương án "sống chung với dịch", vừa duy trì kinh tế, vừa phòng chống dịch.
Theo PGS. TS. Tô Trung Thành, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Chính phủ cần có những giải pháp quyết liệt và phối hợp chính sách một cách chủ động để duy trì tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, đảm bảo được các nguồn lực tăng trưởng dài hạn. Hơn nữa, Chính phủ nên lựa chọn đúng khu vực để tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho hồi phục kinh tế.
Cụ thể, dưới tác động của dịch Covid-19, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang chịu nhiều ảnh hưởng, nhất là khi diễn biến dịch trên thế giới còn nhiều phức tạp. Vì thế, khu vực FDI sẽ hồi phục chậm hơn các DN trong nước. Ngoài ra, với các DN trong nước cũng có sự khác nhau giữa DN tư nhân và DN nhà nước. Các chuyên gia đánh giá, khu vực kinh tế tư nhân, nhất là khối DN nhỏ và vừa do đặc tính quy mô nhỏ, linh hoạt nên có thể sẽ phục hồi nhanh hơn, thích ứng tốt hơn với các cú sốc bên ngoài. Vì thế, với khối DN này, PGS. TS. Tô Trung Thành cho rằng, các DN cần tái cấu trúc, cũng như tìm kiếm các nguồn cung ứng mới đảm bảo yếu tố linh hoạt và khả năng tự phục hồi. DN cũng cần nắm bắt được xu thế của thị trường, đầu tư vào khách hàng mục tiêu và dự đoán hành vi, tìm các phương án marketing và bán hàng mới... để đáp ứng nhu cầu của người mua.
Phân tích riêng theo từng ngành, nhiều chuyên gia nhận định, ngành chế biến, chế tạo vẫn gặp nhiều khó khăn khi tình hình dịch bệnh trên thế giới còn diễn biến phức tạp. Minh chứng là Chỉ số Quản trị người mua hàng PMI giảm mạnh từ 49 điểm trong tháng 2 xuống 41,9 điểm trong tháng 3 giữa bối cảnh các nhà sản xuất nội địa đang đối diện với cả khó khăn do gián đoạn chuỗi cung ứng lẫn sự thiếu hụt các đơn hàng mới khi nhu cầu toàn cầu yếu đi.
Cùng với đó, các ngành xuất khẩu chủ lực vẫn đối diện với nhiều khó khăn. Theo Bộ Công Thương, những ngành xuất khẩu lớn như dệt may, da giày, đồ gỗ có thể sụt giảm sản lượng đến 70% trong quý II so với quý I do sự cắt giảm đơn hàng từ các thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ vẫn trong giai đoạn phong tỏa do Covid-19. Mặc dù vậy, đây vẫn nên là lĩnh vực cần ưu tiên ngay khi có đơn hàng. Bởi các chuyên gia cho hay, sau dịch Covid-19, nhiều DN, tập đoàn lớn sẽ dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia khác, Việt Nam muốn đón đầu xu hướng đó thì phải duy trì xuất khẩu.
Với các ngành như vận chuyển hành khách, logistics, hàng không, du lịch, sự phục hồi cũng sẽ chậm hơn và phải căn cứ vào tình hình của từng địa phương, trước mắt nên ưu tiên thị trường nội địa. Vì thế, các DN kiến nghị Chính phủ cần ban hành lộ trình phục hồi cụ thể, cũng như nhiều phương thức hỗ trợ hiệu quả bởi đây là những ngành chịu thiệt hại nặng nề nhất. Đặc biệt, với những ngành như du lịch, hàng không hay công nghiệp chế biến chế tạo tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, việc mở cửa trở lại như thế nào còn phụ thuộc lớn vào diễn biến dịch bệnh trên thế giới.
PV Drilling ký quỹ hơn 15 triệu USD bảo lãnh cho PVD Tech mở L/C Hội đồng quản trị Tổng công ty CP Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PV Drilling) vừa phê duyệt việc ký quỹ và bảo lãnh cho PVD Tech mở L/C (thư tín dụng). Việc ký quỹ được sử dụng bằng nguồn tiền trên tài khoản của PV Drilling tại ngân hàng với số tiền là 15.198.200 USD. Mục tiêu ký quỹ để...