Địa phương lơ là, doanh nghiệp gian lận, nông sản Việt ăn “quả đắng”
Nếu không kiểm tra, giám sát tốt các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số, thường xuyên có các vùng trồng, cơ sở đóng gói vi phạm quy định của nước nhập khẩu, nguy cơ mất thị trường của nông sản Việt rất cao.
Nếu không được cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói thì nông sản không đủ điều kiện xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Ảnh: N.Hiền
Cấp gần 1.000 mã số vùng trồng
Theo thông tin cập nhật mới nhất từ Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), đến thời điểm hiện tại, đối với các thị trường xuất khẩu nông sản “khó tính”, Việt Nam đã cấp được 998 mã số vùng trồng.
Trong đó các mã số được cấp nhiều nhất là cho thị trường Hoa Kỳ (471), tiếp đó là Australia và New Zealand (393), Hàn Quốc (199) và cuối cùng là các thị trường Thái Lan, Nhật Bản, EU. Ngoài ra, có 47 mã số cơ sở đóng gói đã được cấp cho nông sản xuất khẩu sang các thị trường này.
Riêng thị trường Trung Quốc, tính đến tháng 8/2020 đã có 47 tỉnh gửi văn bản đề nghị và đã cấp được 1.735 mã số vùng trồng với diện tích trên 180.000 ha cho 9 loại quả tươi (thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, dưa hấu, chuối, mít và măng cụt) đã được xuất khẩu chính ngạch và 1.832 mã số cơ sở đóng gói.
Ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho hay, trong thời gian qua, việc kiểm tra và giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại các địa phương được thực hiện về cơ bản đáp ứng được yêu cầu.
Tuy nhiên, tháng 6/2020, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo cho cơ quan kiểm dịch thực vật Việt Nam về 220 lô xoài (khoảng 3.300 tấn trong tổng số 750.000 tấn đã xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2019 và 2020 – chiếm khoảng 0,43% tổng lượng xuất khẩu) vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật với nhiều nguyên nhân khác nhau.
Phía Trung Quốc yêu cầu tạm ngưng xuất khẩu xoài từ các 12 vùng trồng và 18 cơ sở đóng gói có liên quan để phối hợp tiến hành điều tra nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục và nâng cao công tác quản lý, trong đó nhiều nhất là Tiền Giang (có 15 mã số nhà đóng gói và vùng trồng), tiếp đó là An Giang (7 mã) và thấp nhất là Vĩnh Long (2 mã).
“Mặc dù tỷ lệ số mã số cơ sở đóng gói và vùng trồng đang bị phía Trung Quốc tạm ngưng xuất khẩu là không lớn, nhưng đây là một tín hiệu cho thấy công tác kiểm tra, giám sát và quản lý mã số vùng trồng đối với các nông sản xuất khẩu cần phải được rà soát, chấn chỉnh kịp thời”, ông Hoàng Trung nhấn mạnh.
Địa phương lơ là, doanh nghiệp gian lận
Cục Bảo vệ thực vật nêu rõ, qua quá trình kiểm tra, rà soát, có thể thấy vẫn còn một số vấn đề tồn tại liên quan đến việc quản lý, giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Cụ thể như, việc quản lý mã số tại các một số địa phương vẫn còn lỏng lẻo, chưa được chú trọng, chưa xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói sau khi được cấp mã số.
Bên cạnh đó, sự liên kết giữa vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã với các cơ quản lý ở địa phương, Trung ương để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu còn chưa được chặt chẽ.
Video đang HOT
Đáng chú ý rất nhiều địa phương chưa phân công cho một cơ quan chuyên môn làm đầu mối để thực hiện quản lý, giám sát và hướng dẫn đối với việc kiểm tra và quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói. Điều này dẫn tới việc không thống nhất trong quá trình xử lý công việc”.
Về phía doanh nghiệp xuất khẩu, đã xuất hiện tình trạng các doanh nghiệp sử dụng không đúng mã số, mạo danh mã số của nhau để xuất khẩu. Điều này không những gây ảnh hưởng đến uy tín hàng trái cây Việt Nam xuất khẩu mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến các đơn vị chủ sở hữu mã số.
Nhiều chuyên gia ngành nông nghiệp nhận định, nếu không kiểm tra, giám sát tốt các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người nông dân.
Thậm chí nguy cơ mất thị trường, không thể xuất khẩu được nữa là rất cao nếu thường xuyên có các vùng trồng, cơ sở đóng gói vi phạm quy định của nước nhập khẩu.
Thời gian tới để quản lý tốt hơn vấn đề này, Bộ NN&PTNT xác định tiếp tục chỉ đạo hình thành liên kết chuỗi sản phẩm từ vùng trồng, nhà đóng gói, nhà xuất khẩu, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước để ngăn chặn tình trạng đưa sản phẩm từ ngoài vùng trồng hoặc cơ sở đóng gói chưa có mã số vùng trồng vào chuỗi sản phẩm và kiểm soát khẩu xuất khẩu.
Ở cấp địa phương, Bộ NN&PTNT nêu rõ cần phân công cụ thể cán bộ và cơ quan đầu mối trong quản lý, giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã số. Đây chính là đơn vị để Bộ NN&PTNT triển khai các hoạt động kỹ thuật cụ thể có liên quan.
Đồng thời, tăng cường mối liên kết với các vùng trồng, các cơ sở đóng gói để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu từ các vùng trồng và cơ sở đóng gói để tránh việc mạo danh mã số, cũng như các hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng mã số…
Việc cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói hiện nay đang được triển khai thực hiện theo quy định của nước nhập khẩu. Theo đó, chỉ có nông sản (chủ yếu là rau quả tươi) được sản xuất từ vùng trồng, cơ sở đóng gói mới được phép xuất khẩu sang các nước như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… và gần đây nhất là Trung Quốc.
Nếu không được cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói thì nông sản không đủ điều kiện xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Thị trường nông sản tuần qua: Giá cà phê giảm nhẹ
Tuần qua (ngày 7/9 đến 12/9), giá lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng ổn định ở mức cao. Giá tiêu cũng tương đương so với tuần trước, tuy nhiên giá cà phê giảm nhẹ.
Tuần qua, giá cà phê giảm nhẹ. Ảnh minh họa: Hoàng Hùng/TTXVN
Thị trường nông sản trong nước:
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang, giá lúa tươi thường tại tỉnh dao động từ 5.900 - 6.100 đồng/kg, tương đương tuần trước; các loại lúa chất lượng ổn định, cụ thể Jasmine từ 6.200 - 6.300 đồng/kg, lúa OM từ 5.950 - 6.300 đồng/kg.
Vụ lúa Hè Thu năm nay, nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất trong điều kiện thuận lợi bởi giá ở mức cao, đảm bảo có lãi khá. Lúa gạo được giá và hút hàng, trong khi mùa lũ năm 2020 dự báo ở mức thấp, đây là cơ hội tốt để nông dân gia tăng sản xuất lúa Thu Đông.
Theo ông Lê Văn Tuấn, chủ một doanh nghiệp xay xát lương thực ở xã Bình Phú, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, lúa giống VD 20 có giá khoảng 8.400 đồng/kg, tùy theo địa bàn, cao nhất từ trước đến nay, tăng hơn 2.000 đồng/kg so với vụ Đông Xuân vừa qua. Tương tự, các giống lúa OM 5451, Jamine 85 cũng có giá từ 6.000 - 6.200 đồng/kg, cao hơn khoảng 1.000 đồng/kg so với vụ Đông Xuân vừa qua.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, vụ Hè Thu 2020, các huyện nằm trong vùng dự án ngọt hóa Gò Công gồm Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công, Chợ Gạo gieo sạ 23.300 ha. Các địa phương áp dụng đồng bộ biện pháp thâm canh, phấn đấu đạt năng suất bình quân từ 51 - 55 tạ/ha và sản lượng cả vụ khoảng 123.000 tấn lúa hàng hóa.
Tại Sóc Trăng, giá lúa tiêu thụ trong những tháng gần đây luôn ổn định ở mức cao. Giá lúa thường vụ Hè Thu đang thu hoạch được bán ở mức trung bình từ 5.000 - 5.900 đồng/kg, lúa thơm nhẹ giá từ 5.700 - 6.000 đồng/kg, lúa đặc sản từ 6.000-6.500 đồng/kg. Giá lúa đặc sản ST24, ST25 (cho gạo ngon nhất thế giới) tùy từng thời điểm, giá từ 7.000 đến 8.000 đồng/kg.
Giá lúa bình quân từ đầu năm đến nay tại Sóc Trăng luôn cao hơn so với cùng kỳ năm 2019 từ 400 đồng đến 1.100 đồng/kg. Nhờ vậy, nhà nông có mức lợi nhuận cao, trung bình từ 20 - 25 triệu đồng/ha. Những hộ trồng lúa đặc sản ST24, ST25 lợi nhuận cao từ 30 - 35 triệu đồng/ha.
Do nguồn cung trong nước thấp đã đẩy giá gạo 5% tấm lên 490 - 495 USD/tấn trong phiên ngày 10/9 so với mức 490 USD/tấn trong tuần trước.
Một nhà giao dịch tại tỉnh Tiền Giang cho hay nguồn cung trong nước hiện rất thấp, trong khi một số doanh nghiệp xuất khẩu cố gắng hoàn thành nốt những hợp đồng đã ký trước đó với các khách hàng từ Malaysia, Timor-Leste và châu Phi. Các nhà giao dịch hy vọng giá gạo sẽ giảm trong những tuần tới, trước lúc thu hoạch vụ Thu Đông.
Về cà phê, theo Diễn đàn của người làm cà phê, do giá cà phê ở các sàn trên thị trường thế giới có phiên tăng giảm tương đối ngang nhau nhờ nguồn cung ổn định. Theo đà phục hồi của cà phê thế giới, ngày 12/9 giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên tăng thêm 100 - 200 đồng so với ngày 11/9, lên dao động trong khung 33.200 - 33.700 đồng/kg.
Tuy nhiên, do đầu tuần giá cà phê trong nước có sự đi xuống nên tính chung tuần qua, giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây Nguyên giảm 200 - 300 đồng, xuống dao động trong khung 33.100 - 33.700 đồng/kg.
Tại cảng TP Hồ Chí Minh, giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2,5% đen vỡ, đứng ở 1.533 USD/tấn, với mức chênh lệch cộng 90 - 100 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 1/2021 tại London.
Về tiêu, theo Tin Tây Nguyên, giá tiêu tại khu vực trọng điểm Tây Nguyên giao dịch ở quanh mức 47.000 - 50.000 đồng/kg, tương đương với tuần trước. Ngưỡng cao nhất tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã chạm mức 50.000 đồng/kg. Đồng Nai chốt mức thấp nhất là 47.500 đồng/kg.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, 8 tháng năm 2020, xuất khẩu hồ tiêu đạt 203 nghìn tấn với 445 triệu USD, giảm 7,4% về khối lượng và giảm 20% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Theo dự báo của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, sản lượng hồ tiêu đạt khoảng 240.000 tấn, giảm 15% so với năm 2019. Điều này gây thêm khó khăn cho các nhà xuất khẩu tiêu. Theo đó, mục tiêu xuất khẩu 280.000 tấn tiêu, với trị giá đạt 800 triệu USD cũng được dự báo còn nhiều khó khăn.
Thị trường nông sản thế giới:
Trên thị trường nông sản Mỹ: kết thúc phiên giao dịch 12/9, giá các loại nông sản giao kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT), Mỹ, diễn biến trái chiều, trong đó giá ngô và đậu tương tăng, trong khi giá lúa mỳ giảm.
Cụ thể, giá ngô giao tháng 12/2020 khép phiên 12/9 tăng 3,5 xu Mỹ (0,96%) lên 3,685 USD/bushel và giá đậu tương giao tháng 11/2020 tăng 18,5 xu Mỹ (1,89%) lên 9,96 USD/bushel. Ở chiều ngược lại, giá lúa mỳ giao tháng 12/2020 chốt phiên với mức giảm 6,25 xu Mỹ (1,14%) xuống 5,42 USD/bushel. (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Công ty nghiên cứu AgResource Research có trụ sở tại Chicago cho hay bão Derecho ở bang Iowa và hạn hán ở khu vực Midwest Mỹ đã làm tổng sản lượng ngô của nước này giảm 253 triệu bushel và đậu tương giảm 150 triệu bushel.
Trong khi đó, dự trữ cuối vụ chính trên thế giới đã giảm 9,9 triệu tấn xuống còn 719,8 triệu tấn. Dự trữ ngô thế giới trong niên vụ 2020/2021 được dự báo sẽ tăng 6 triệu tấn so với niên vụ trước, ngay cả khi lượng ngô bán ra trên thế giới tăng lên 186 triệu tấn.
Dự trữ đậu tương cuối niên vụ 2020/21 của Mỹ đã giảm khoảng 150 triệu bushel xuống 460 triệu bushel, với giả định khoảng 2.125 triệu bushel được xuất khẩu. Trung Quốc đã mua gần 17 triệu tấn đậu tương Mỹ trong niên vụ 2019/2020. Giả sử nhu cầu ngoài Trung Quốc không thay đổi, có khả năng nước này sẽ mua khoảng 28 - 29 triệu tấn đậu tương từ Mỹ trong niên vụ 2020/2021. Các nhà phân tích ước tính rằng Trung Quốc hiện đã đặt hàng từ 22-23 triệu tấn đậu tương của Mỹ.
Còn dự trữ lúa mỳ Mỹ cuối niên vụ 2020/21 không đổi ở mức 925 triệu bushel, với 975 triệu bushel dành để xuất khẩu. Lượng lúa mỳ nhập khẩu trong niên vụ 2021/21 của Trung Quốc đã tăng 1 triệu tấn lên 7 triệu tấn.
Về thị trường gạo châu Á: giá gạo xuất khẩu trong tuần này tại Ấn Độ đã tăng lên mức cao nhất của gần 18 tháng do nguồn cung vẫn hạn chế bởi tình hình gián đoạn do đại dịch COVID-19 gây ra. Trong khi đó, Bangladesh có thể phải nhập khẩu mặt hàng thiết yếu này sau khi thiên tai tàn phá mùa màng.
Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ đã tăng lên 387-394 USD/tấn so với mức 384-390 USD/tấn trong tuần trước đó.
Các nhà xuất khẩu Ấn Độ đang phải vật lộn với tình trạng lượng container hiện có hạn chế và khan hiếm công nhân tại cảng xử lý gạo lớn nước Kakinada trong bối cảnh nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới này hiện chỉ đứng sau Mỹ về số ca mắc COVID-19.
Tại nước láng giềng Bangladesh, giá gạo trong nước đã tăng tới 20% trong một tháng do lo ngại thiếu hụt nguồn cung. Theo các quan chức Bộ nông nghiệp Bangladesh, lượng mưa quá lớn từ tháng 3 - 4/2020, bão Amphan trong tháng 5/2020 và ba đợt lũ lụt hồi tháng 6 - 7/2020 đã làm hư hại hầu hết các loại cây trồng, trong đó 70% là lúa. Do đó, Bangladesh cần bắt đầu nhập khẩu gạo ngay lập tức.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống 487 - 510 USD/tấn trong ngày 10/9 so với mức 500 - 513 USD/tấn trong tuần trước do nhu cầu giảm.
Về thị trường cà phê, giá cà phê thế giới khép phiên giao dịch cuối tuần 11/9 ở mức cao, gần mức cao nhất của 8 tháng rưỡi ghi nhận được trong ngày 4/9.
Cụ thể, giá cà phê Robusta giao tháng 11/2020 trên sàn ICE Europe-London tăng thêm 10 USD lên 1.433 USD/tấn. Còn giá cà phê Arabica giao tháng 12/2020 trên sàn ICE US -New York- tăng 0,75 xu Mỹ lên 132,45 xu Mỹ/pound.
Tình trạng khô hạn quá mức tại Brazil, được dự báo sẽ làm giảm năng suất cà phê, đã hỗ trợ giá mặt hàng này. Theo công ty công nghệ vũ trụ Maxar Technologies của Mỹ, thời tiết khô hạn trong 10 ngày tới ở khu vực Đông bắc Minas Gerais sẽ không thuận lợi cho việc ra hoa của cây cà phê. Khu vực này có lượng mưa thấp hơn 10% so với lượng mưa bình thường trong tháng qua.
Ngoài ra, Trung tâm Dự báo Khí hậu Mỹ hôm 10/9 cho biết hiện tượng thời tiết La Nina đã xuất hiện ở khu vực Thái Bình Dương, có thể dẫn đến lượng mưa dưới mức trung bình ở Brazil trong quý IV/2020.
Giá cà phê đang dần ổn định sau khi có xu hướng tăng cao hơn trong bốn tuần qua lên mức cao nhất của 8 tháng rưỡi hôm 4/9 do dự trữ cà phê giảm dần. Lượng cà phê Arabica dự trữ do ICE giám sát đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 năm rưỡi qua là 1,133 triệu bao (1 bao = 60kg) trong ngày 10/9. Trong khi dự trữ cà phê Robusta đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 tháng là 10.908 lot (1 lot = khoảng 17 tấn) trong ngày 28/8.
Cà phê Arabica đã nhận được sự hỗ trợ do nguồn cung từ Colombia, nhà sản xuất cà phê Arabica lớn thứ hai thế giới, giảm sau khi số liệu từ Liên đoàn các nhà trồng cà phê Colombia cho thấy xuất khẩu cà phê Colombia trong tháng 8/2020 đã giảm 8% xuống 1,118 triệu bao (1 bao = 60kg).
Thêm vào đó, Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) ngày 8/9 công bố số liệu cho thấy xuất khẩu cà phê niên vụ 2019/2020 trên thế giới đã giảm 5,3% so với niên vụ trước xuống 106,58 triệu bao.
Đồng Nai tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh Cũng như tình hình chung cả nước, khi dịch Covid-19 xảy ra các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng phải thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc tạm ngừng hoạt động. Trước tình hình này, chính quyền tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo triển khai giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và đẩy...