‘Địa ngục trần gian’ ít người biết đến
Được xây dựng sau Nhà tù Hỏa Lò, nơi giam giữ các chiến sĩ cách mạng đúng 47 năm, nhưng quy mô của Nhà tù có tên Khe Tù ( Tiên Yên, Quảng Ninh) lại vượt tầm Hỏa Lò cùng những sự đầy đọa và thủ tiêu tù khổ sai.
Hàng nghìn dân thường không cam chịu nô lệ cùng các chiến sĩ cách mạng đã mãi mãi nằm cùng đồi bãi và đất gió hoang hoải nơi đây. Tuy nhiên, hiện nay “địa ngục trần gian” nổi tiếng này vẫn chưa được nhiều người biết đến.
Bài 1: Nhà tù của “nhiều cái nhất”!
Sự kiến tạo của… máu và nước mắt
Gần đến năm 1945, với diễn biến thuận trên toàn thế giới, phong trào cách mạng nước ta phát triển hết sức rầm rộ. Lúc này, từ những nơi hẻo lánh, đến các công xưởng, hầm mỏ; từ nơi bị Thực dân Pháp chiếm giữ đến nơi không bị chiếm giữ đều có các chi bộ, đảng bộ hoạt động. Với những diễn tiến bất lợi này, cùng sự lùng sục và vây hãm, nhiều chiến sĩ cách mạng cũng như nông dân, công nhân được giác ngộ đã bị giặc bắt. Trước những bắt bớ này, các nhà tù, các “căng” ( caserne) đã được Thực dân Pháp xây dựng trước đây đều rơi vào tình trạng quá tải.
Ở miền Bắc Việt Nam lúc này, để phục vụ cho khủng bố, đàn áp chí khí cách mạng, các hệ thống “căng” – vốn là nơi đóng quân, đồn trú của binh lính Pháp cũng được biến thành “nhà tù”. Nhưng giải pháp này cũng không đem đến việc chia sẻ cho sự quá tải của tù nhân. Các nhà tù có tiếng thời đấy như Hỏa Lò (xây dựng năm 1896), Điện Biên (xây dựng năm 1901), Sơn La (xây dựng năm 1908)… đều không còn chỗ chứa, trữ tù nhân. Để có sự giải thoát cho vấn đề này cũng như tính toán cho một tầm chiến lược dài hạn của chiến tranh, sau khi khảo sát hết sức cặn kẽ và quy mô, Thực dân Pháp đã quyết định chọn Tiên Yên để xây dựng một nhà tù với tên gọi: Khe Tù.
Sở dĩ Thực dân Pháp lựa chọn Tiên Yên để xây dựng Nhà tù Khe Tù bởi thời gian ấy Tiên Yên vốn là nơi “khỉ ho, cò gáy”, “rừng thiêng, nước độc”. Hơn thế nữa, đặt Nhà tù Khe Tù ở đây, ngoài việc giam giữ tù nhân thì Thực dân Pháp còn có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng dùng để án ngữ đường huyết mạch từ Móng Cái về Hà Nội hoặc ra Hải Phòng. Sự hiện diện của Nhà tù Khe Tù với quy mô phòng giam, lô cốt, đồn bốt, sân bay, kho xăng dầu… còn là hậu cứ của điểm đầu tiên kết nối của con Đường số 4. Con đường này, trong thời kháng Pháp đã được mệnh danh là “con đường lửa” bởi nó đi qua một số tỉnh của chiến khu cách mạng như: Lạng Sơn, Cao Bằng.
Để thực hiện ý tưởng có tính chiến lược với ý nghĩa “một mũi tên, trúng hai đích” này, Thực dân Pháp đã huy động binh lính và tù nhân vào cuộc. Những tù nhân bị bắt tại chỗ hay di chuyển từ các nơi khác, cùng với gót giày, roi da và gậy gỗ rớm máu quất không thương tiếc, gần 6 năm sau, “địa ngục trần gian” có tên Khe Tù bắt đầu được định hình. Khe Tù là một nhà tù “đắc địa” bởi việc lợi dụng xây cất hết sức khoa học trên một địa hình, địa vật khó nơi nào có được.
Một phần di tích Khe Tù còn giữ được nguyên trạng.
Video đang HOT
Phía trước Nhà tù Khe Tù là sông Khe Tù mênh mông ôm trọn một dải núi đồi trong một tầm dễ quan sát. Xung quanh Nhà tù Khe Tù được bố trí hệ thống giao thông hào, tường đá và dây thép gai dầy đến vài lớp. Ở vị trí các đồi cao, Thực dân Pháp cho xây dựng hệ thống bót và chòi canh cùng súng máy, đèn quét sáng thường xuyên vào ban đêm. Với cách bố phòng như vậy thì bất cứ một tù nhân nào bước qua chiếc cổng có chữ Nhà tù Khe Tù ngày ấy thì khó có hy vọng quay trở lại!
Những “cái nhất” của Khe Tù
Nhiều chiến sĩ cách mạng, nhiều nhân chứng đã có thời chứng kiến sự hiện diện của Nhà tù Khe Tù đến nay gặp, hỏi lại chuyện không thể không khỏi rùng mình bởi những đầy đọa và hủy diệt đã diễn ra tại đây. Họ đã từng tận mắt chứng kiến sự tàn sát, tận mắt chứng kiến những cảnh tra tấn đánh đập, đến nay không thể nào nguôi ngoai.
Ngày ngày, từng đoàn xe phủ bạt, nối đuôi nhau chở tù nhân vào. Tiếng kêu la, ai oán vang lên cùng tiếng súng và sự nâng lên, hạ xuống không mệt mỏi của các lưỡi dao chém. Tiếng la ngày một ít đi. Xe lại vào, ai oán, kêu la lại vang lên. Rồi lại dịu đi… Nghe tiếng kêu, đếm xe vào ra, người ta biết đã có vài trăm người bị hạ sát trong mỗi đợt.
Sau khi hệ thống nhà tù có tên Khe Tù này đi vào hoạt động, không giống như các nơi khác, Nhà tù Khe Tù là nơi duy nhất dùng để giam giữ hai đối tượng phạm nhân. Đối tượng thứ nhất là lao động khổ sai và đối tượng thứ hai là những người tham gia hoạt động cách mạng. Những người lâm án thuộc các đối tượng này được xe cam – nhông (camion) bịt bạt kín chở về rồi được phân loại.
Người tham gia cách mạng thì bị biệt giam, người lao động khổ sai thì quằn lưng làm việc trong tình cảnh kiệt quệ vì đánh đập và cho ăn đói. Khe Tù ngày ấy cũng nổi danh là nhà tù của một vùng miền rộng lớn. Các tù nhân thuộc đối tượng trên được thu gom ở một dải dài từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Hải Phòng, Hải Dương cũng như các tỉnh phía Bắc đều được tập trung về đây. Quân số giảm nhanh chóng bởi sự bạc đãi và công suất làm việc liên tục của các máy chém.
Trong các hệ thống “căng” và nhà tù của Pháp xây dựng tại miền Bắc Việt Nam, Nhà tù Khe Tù thời bấy giờ (và đến cả thời nay) vốn không nổi tiếng. Nhưng thực ra trong cái sự chìm lắng về tiếng tăm này thì Nhà Tù Khe Tù lại đang dẫn đầu những cái nhất mà ít nhà tù nào thời ấy có được. Nếu so sánh với Nhà tù Hỏa Lò, một nhà tù thuộc bậc “đàn anh” do Thực dân Pháp xây dựng thời ấy, hơn Nhà tù Khe Tù đến gần 50 tuổi thì các dụng cụ tra tấn và “đầu tư” các vật dụng để hành quyết tù nhân của Hỏa Lò còn thua xa Khe Tù.
Thời ấy, để ngăn đe và xử tử các tù nhân “cứng đầu” với đầy đủ tội danh thì Hỏa Lò được trang bị 2 máy chém. Riêng khe tù, để đáp ứng với “công suất” chém và hủy tù nên Thực dân Pháp bố trí tại đây đến… 4 máy chém. Các máy chém ở đây cũng được bố trí “khủng” hơn Hỏa Lò rất nhiều, mỗi máy chém được trang bị 1 dao chém có trọng lượng 80kg, dài 2m và dày đến 3cm.
Một trong những bệ máy chém còn sót lại.
Khác với máy chém ở Hỏa Lò, được đặt kín đáo trong buồng xử thì máy chém ở Nhà tù Khe Tù hầu như được bố trí lộ thiên ngoài giời, không cần xây tường che bao. Nối từ các máy chém này xuống sông Khe Tù là các máng xi – măng. Nhiều chứng nhân ở Nhà tù Khe Tù ngày ấy cho biết, vì “công suất” xử tử tù nhân ở Nhà tù Khe Tù quá cao nên phải thiết kế như vậy thì máu của tù nhân mới có đường thoát xuống sông. Vào những ngày cao điểm xử trảm tù nhân, máu phạm nhân theo máng xi – măng, chảy xuống sông Khe Tù loang đỏ một khúc sông.
Đơn Thương
Theo khoe365.net.vn
Bí ẩn "vùng tam giác vàng": Giải mã lời nguyền cổ vật
Từ cái chết của một gia đình sau khi đào được cổ vật và người con duy nhất còn sống sót tự dưng điên cuồng đã khiến người dân xã Khánh Thiện cho rằng báu vật bị yểm bùa. Để có lời lý giải, PV đã có chuyến tìm hiểu thực hư của những câu chuyện này.
Người dân ở "vùng tam giác vàng" xưa nay vẫn truyền tai nhau về hậu vận của những người từng "trúng" kho báu. Đa phần họ có những kết cục bi thảm, người chết tức tưởi không lý do, kẻ bị điên rồi tự gieo mình xuống ghềnh đá mà tự sát. Chính vì thế, một số người dân nơi đây, sau khi đào được đồ cổ hiện vẫn còn hoang mang, tìm thày mo về cúng bái giải hạn, hao tốn không ít tiền bạc, của cải.
Bi kịch của dòng họ tìm được báu vật (?)
Từ trước đến nay, "vùng tam giác vàng" vẫn được người dân ở các vùng lân cận cho là nơi bình yên, ít phức tạp như những nơi khác khi có sự xuất hiện của vàng, bạc, đồ cổ. Tuy nhiên, chính đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng này lại một mực khẳng định rằng những ai tìm được đồ cổ từ trước đến nay đều phải chịu kết cục thê thảm.
Tìm hiểu thực hư về những tin đồn gây hoang mang dư luận trên, PV đã gặp già làng Hoàng Văn Phản (80 tuổi) ở thôn Ta Tán, xã Khánh Thiện (Lục Yên, Yên Bái).
Già làng Phản cho biết: "Hơn 30 năm về trước, ở trong thôn có gia đình nhà ông Hoàng Văn Thắng liên tiếp đào được vàng miếng, lục bình cổ dưới nền nhà. Không lâu sau, những thành viên trong gia đình ông đều chết một cách kỳ lạ. Ông Thắng tử vong bất thường, một năm sau vợ ông cũng đột tử.
Ông Hoàng Văn Phản (80 tuổi) trò chuyện cùng PV.
Không dừng ở đó, những đứa con của ông cũng đoản mệnh, đứa thì nghẹn cơm mà chết, đứa thì hóa điên dại. Người con duy nhất tên Bố Duyn (tên thật là Hoàng Văn Anh) con ông Thắng còn sống. Nhưng bỗng dưng điên dại. Sau khi Bố Duyn được người thân nhờ thày mo cúng bái thì vợ Duyn lại phát bệnh. Bởi vậy mà người thân, họ hàng ông Thắng mới hoang mang đi tìm lời giải từ phía tâm linh.
Trong khi vẫn chưa biết nguyên nhân của những cái chết này do đâu thì tin đồn hoang đường về kho báu gia đình ông Thắng bị yểm bùa đã được người dân rêu rao khắp nơi", già làng Phản tiếp lời.
Chuyện lạ, kho báu nhiều vô kể ở "vùng tam giác vàng" còn được lưu truyền bởi nhiều câu chuyện được người dân thêu dệt lên. Theo lời ông Phản: "Gốc đa lớn nằm cạnh cầu tràn thuộc thôn Tông Áng, xã Khánh Thiện có khả năng được chôn nhiều cổ vật nhất, nhưng dân làng chẳng ai dám đào lên cả.
"Nhiều lời đồn rằng, cây đa đó có thần cây bảo vệ, nên từ xưa trong làng đã có người có ý định khai quật lên lấy châu báu nhưng đều có kết cục thê thảm. Những lời đồn quái dị đó khiến dân làng sống trong lo sợ"- đôi mắt đỏ ngầu, già làng Phản tâm sự
Giải mã lời đồn "bùa trú" trong kho báu
Những tin đồn về bùa chú được yểm trong cổ vật được thêu dệt lên ngày càng nhiều khiến người dân hoang mang lo sợ. Một năm về trước, Anh Hoàng Văn Chóng ở thôn Tông Mô, Khánh Thiện (Lục Yên, Yên Bái) đào được cổ vật hình con voi khiến gia đình anh đến thời điểm hiện tại vẫn hoảng loạn. Gia đình có con gà, con vịt chết anh Chóng cũng mời thầy mo về cúng bái. Có ai đau ốm điều đầu tiên anh Chóng nghĩ đến do bị yểm bùa. Từ ngày đào được cổ vật, cuộc sống của gia đình anh bị đảo lộn.
Sau khi đào được cổ vật hình con voi, anh Chóng phải thuê thày mo giỏi nhất về làm cây kiếm hình con cá để ngay trước cổng để xua đuổi vận đen.
Anh Chóng tâm sự: "Dù chưa bao giờ tận mắt chứng kiến công hiệu của bùa chú, nhưng nghe tin đồn nhiều khiến tôi cũng sợ hãi. Cứ vài tháng thày cúng đến nhà một lần, giờ thì tôi cúng một tháng 3 lần mới thấy yên tâm. Chứ hết gà, vịt chết, lại đến người nhà ốm đau triền miên mà khiến bản thân mình sợ hãi mà phải tìm đến thày mo thôi".
Lý giải về thực hư những lời đồn ma quái, bùa yểm trong báu vật cổ, ông Hoàng Văn Hách, chủ tịch UBND xã Khánh Thiện cho biết: " Công nhận ở xã tôi và 2 xã lân cận là Tiên Yên và Vĩnh Phúc có rất nhiều người tìm được đồ vật cổ của người xưa để lại. Tuy nhiên chuyện yểm bùa thì bản thân tôi cho rằng hoàn toàn không có. Bởi trước hết không có cơ sở kiểm chứng là có thế lực siêu nhiên.
Còn về gia đình của Duyn tôi nghĩ đó chỉ là trường hợp ngẫu nhiên mà vợ chồng anh này phát bệnh. Thêm vào đó, do người dân sợ hãi rồi đồn thổi là có bùa chú chứ không có thật, bản thân tôi cũng hay thường đi mua đồ cổ về trưng bày mà có sao đâu. Về vấn đề này chính quyền sẽ kiên quyết định hướng người dân nên có những cái nhìn thực tế hơn ".
Theo Gia Phan/Khám phá
Chiến trường 'khốc liệt' thời Chiến tranh thế giới I Những bức ảnh đen trắng ghi dấu cuộc sống của những người lính Pháp trên chiến trường thời Chiến tranh thế giới I. Một binh sĩ Pháp đứng gần nghĩa trang chôn cất những người lính tử trận tại Saint-Jean-sur-Tourbe, thuộc mặt trận Champagne, miền đông nước Pháp ngày 19/12/1916. Binh sĩ Pháp đứng trong chiến hào của Đức sau trận đánh ở...