Đi tìm bóng dáng quan tài treo của người Giẻ Triêng ở Kon Tum
Những chiếc quan tài treo trên thân cây bí ẩn ở vùng Bắc Tây Nguyên như có lực hút thôi thúc chúng tôi phải tìm cách “mục sở thị” và khám phá những câu chuyện huyền bí hư thực về khu rừng thiêng.
Qua khỏi trung tâm thị trấn Đắk Glei, chúng tôi ngược những cung đường uốn lượn bên sườn núi. Mây mù bao phủ đặc quánh che khuất tầm nhìn như chực hất tung chiếc xe xuống vực. Từ đỉnh đèo Lò Xo, ngược về phía tây khoảng 15km, vượt qua những con đường ghồ ghề xuyên dưới những tán lá rừng, cuối cùng, chúng tôi cũng đến được với ngôi làng nhỏ Pung Tôn, xã Đắk Blô huyện Đắk Glei (Kon Tum). Ngôi làng này được nhiều người đồn thổi có khu rừng ma bí ẩn mà bất cứ ai vào sẽ chết khiến những người trong làng không một ai dám tới gần.
Dấu tích còn sót lại của khu rừng ma chỉ là những thân gỗ mục bắc ngang qua những thân cây gỗ lớn.
Trưởng thôn Pung Tôn A Lếk cho biết: “A Căn và A Gõk là những người đi đầu trong việc “ táng treo” ở làng Pung Tôn. Theo sau A Căn và A Gõk có một số người cũng thực hiện việc táng treo nhưng quan tài không lớn bằng.”
Trưởng thôn A Lếk nhớ lại, A Gõk chết năm 1976, khi đó gia đình A Gõk giàu lắm, trong nhà có mấy trăm con trâu, ruộng nương bạt ngàn, rất nhiều chiêng , ché quý… Khi A Gõk chết, các con của A Gõk mua những ống nhôm dùng chứa bom bi trong chiến tranh, thuê người gò thành hình chiếc quan tài lớn sau đó đặt xác cha vào rồi cùng nhau mang lên “rừng ma” của làng để treo.
Hơn mười năm sau, năm 1989, vợ A Gõk vị bạo bệnh mà qua đời. Các con của A Gõk khiêng xác mẹ lên trên rừng ma, mở quan tài ra, dùng tay lùa xương cốt của cha qua một bên rồi đặt xác mẹ vào để cho hai người mãi bên nhau.
Năm 2007, khi cây cầu treo này được xây dựng, những chiếc quan tài không còn còn nữa, đồng thời từ đó rừng ma dần biến mất.
Còn A Căn một người nếu so sánh về tài sản thì không giàu có bằng “tiền bối” A Gõk. Tuy nhiên, nhà A Căn có nhiều con trai, nên khi chết vào năm 1980, những người con của ông mua ống nhôm về gò thành quan tài, sau đó đặt trên thân cây gỗ được đặt lơ lửng cách mặt đất chỉ hơn 1m để “táng treo” cho ông.
Sau đó cũng có một số gia đình “táng treo” người chết nhưng không phải làm quan tài bằng nhôm như hai “tiền bối” mà được đục từ thân của một loại gỗ cứng ở trên rừng.
Video đang HOT
Nghe xong câu chuyện về khu rừng ma từ trưởng thôn A Lếk, chúng tôi nhờ ông dẫn tới khu rừng ma nhưng ông gạt phắt: “Không được đâu, vào đó con ma rừng sẽ bắt lại và chết trong trong đó đấy”. Sau một hồi năn nỉ, cuối cùng, ông cũng đồng ý cho người con trai A Vũ dẫn chúng tôi đi tới rừng ma nhưng không quên cảnh cảnh báo “vào đó sẽ bị con vắt nó hút máu cho tới chết”.
Qua những con đường mòn, qua cây cầu treo bắc qua dòng suối nhỏ một khoảng rừng cây cối um tùm, rậm rạm theo như lời A Vũ thì đó là vị trí tọa lạc của khu rừng ma, sở dĩ khoảng rừng này còn xanh tốt như vậy do không ai dám vào đó chặt phá vì sợ “con ma giết chết”.
Bây giờ, người Giẻ Triêng ở Pung Tôn chôn cất, xây mộ cho người chết rất kiên cố.
Qua khỏi cây cầu treo, khu rừng già dần hiện ra, âm u, hoang vắng đến lạnh người. A Vũ không dám bước tới thêm vì “sợ ma theo” mà đứng đợi chúng tôi ở dưới cây cầu, đồng thời chỉ cho chúng tôi cứ tiếp tục đi lên đỉnh đồi, đến khi nào gặp khoảng đất bằng phẳng thì khu rừng ma ở đó.
Ngược theo con đường mòn dẫn sâu vào trong khu rừng, cảm giác rờn rợn lạnh sống lưng khi như có một bóng dáng vô hình dõi theo bước chân của chúng tôi phía sau. Đâu đó những con chim vỗ cánh phá tan bầu không khí tĩnh lặng không một tiếng động.
Tận mắt chứng kiến, khu rừng ma không như những gì chúng tôi tưởng tượng về những chiếc quan tài treo lủng lẳng trên thân cây, cũng không có những chiếc quan tài đặt cách mặt đất chừng hơn một mét. Nơi đây chỉ còn những thân cây gỗ cao lớn, những ngôi mộ lè tè gần như bằng mặt đất. Ở những ngôi mộ đó cũng không có những chiếc chiêng, ghè, cuốc, dao… vẫn thường được chia cho người chết theo tập tục của người địa phương. Đảo khắp một vòng của khu rừng ma cũng không phát hiện được gì nhiều hơn, thoáng chút thất vọng, chúng tôi quay đầu trở về.
A Vũ đứng đợi chúng tôi ở dưới chân cầu. Mang những thắc mắc của về sự “mất tích” của khu rừng ma hỏi A Vũ, A Vũ cho biết: “Năm 2007, khi những công nhân tới xây dựng chiếc cầu này, họ đã lên chôn cất những chiếc quan tài, cùng những đồ được chia cho người chết cả rồi”.
Theo Dantri
Dị nhân chuyên nằm canh quan tài tại các đám ma
Ông là người tứ cố vô thân, sống nhờ ở từ đường của một dòng họ. Cả đời ông chẳng có gì ngoài cái tình với người chết. Khoảng 50 năm nay, ông giữ thói quen đến các đám ma chả quen biết.
"Bạn" của người chết
Chẳng cần quen biết, cũng chẳng ngại xa gần, cứ có đám ma là ông dị nhân ấy có mặt. Và với bản chất người quê hồn hậu, chẳng ai ở trong vùng nỡ xua đuổi vị khách lạ ấy. Cũng bởi thế, gần như cả cuộc đời, dị nhân Nguyễn Danh Hòa (tên thường gọi là Trì, 85 tuổi, trú tại thôn 7 - Vũ Trung - Kiến Xương - Thái Bình) làm "bạn" với người chết, ông thường ăn cỗ nhà đám và nằm canh quan tài lúc đêm khuya giúp gia chủ.
Ở xã Vũ Trung, hỏi ông Trì "đám ma", ai cũng biết. Ông Trì không chỉ nổi tiếng trong xã mà cả những xã lân cận bởi đặc điểm này. Cứ nghe ngóng ở đâu có người mới chết là ông lại tìm đến. Ông cũng "có trước có sau" lắm, cũng dành dụm vài nghìn đồng mua bó hương và vài thếp tiền vàng âm phủ mang đến viếng người đã khuất.
Ông Trì "nổi tiếng" khắp vùng vì sự xuất hiện ở các đám ma.
Đám nào cũng vậy, ông thường là khách viếng sớm nhất. Thường thì gia chủ làm lễ nhập quan xong là ông đã có mặt, ông thắp hương trước quan tài người chết và kể từ thời điểm đó đến khi quan tài được đưa đi chôn, ông quanh quẩn ở nhà đám. Ông Trì ăn đủ các bữa cơm ở nhà đám. Giờ cơm, họ dọn sẵn bàn với đầy đủ cơm canh, thịt thà và ông tự nhiên ngồi ăn. Có đám, ông Trì ngồi ăn một mình, cũng có khi ngồi cùng mâm cơm với người nhà hoặc những người đến giúp việc tại đám ma. Cơm nước xong xuôi, ông Trì vẫn cố thủ ở nhà đám trọn vẹn hai, ba ngày tang ma. Ông ngồi uống chén trà, nói dăm ba câu chuyện tầm phào với người đến phúng điếu.
Chẳng giúp được việc việc gì trong đám ma, ông chỉ quẩn quanh như thế, đến bữa lại ăn. Chỉ khi màn đêm buông xuống, ông Trì tự nhận mình có phận sự. Lúc đêm khuya, khi gia quyến người chết đã mệt lả, tìm chốn ngả lưng để lấy sức ngày hôm sau lo hậu sự thì ông bắt đầu phần việc rất tự giác. Chẳng cần ai nhờ vả, ông chủ động đến nằm bên cạnh quan tài đến sáng. Ông ngủ ngon lành, không thân quen với người nằm trong áo quan nhưng chẳng sợ sệt gì. Ông nhắm mắt như ngủ nhưng rất tỉnh, hương tàn, ông chủ động trở dậy để thắp.
Có dị nhân này nằm canh áo quan, gia quyến người chết yên tâm hoàn toàn bởi chẳng phút nào đèn tắt, hương tàn trên nắp quan tài. Ông Trì tâm niệm: "Cùng là con người, phải có bầu có bạn. Người chết cũng thế thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, không để người ta cô đơn...". Cũng bởi tấm lòng ấy của ông Trì mà gia quyến người chết chẳng ai nỡ hắt hủi.
Ông Trì mồ côi bố mẹ từ nhỏ. Trên ông còn có người chị gái ruột, lấy chồng và sinh sống ở tận Quảng Ninh. Năm nay chị gái ông Trì cũng đã ở tuổi 90. Gia đình chị gái cũng đuề huề con cái và kinh tế cũng đủ sống, nhưng kiến giải nhất phận, họ cũng chỉ có thể biếu cậu Trì vài trăm đến vài triệu mỗi khi có dịp về quê giỗ tổ. Nhưng ông Trì chẳng bao giờ giữ được tiền, thường mua bán không tiếc tay. Ông Trì không có nhà, sống luôn ở từ đường dòng họ Nguyễn Công ở Vũ Trung từ nhỏ tới nay.
Người cháu gái thường ngày lo cơm nước cho ông Trì.
Ngày còn trẻ, ông thường mang theo kéo, lược, dao cạo...đi cắt tóc dạo để kiếm sống. Tiền kiếm được từ việc cắt tóc, ông dành dụm để hễ có đám ma là mua vàng hương đến phúng điếu. Sau này, ông bỏ hẳn nghề cắt tóc dạo, cứ lang thang đi bộ khắp xã, sang cả những xã lân cận để đến đám ma. Ông chẳng có phương tiện đi lại gì, bất kể xa gần, chỉ đi bộ. Đôi chân trần của ông Trì đã đi không biết bao nhiêu đường đất ở vùng này. Khoảng 50 năm nay, ông giữ thói quen đến các đám ma như thế.
Nhưng khoảng hơn một năm nay, sau lần đi đám ma về, bị xe máy "tông" gẫy chân, ông Trì chẳng còn tìm đến làm "bạn" với người chết được nữa. Ông ở lỳ trong khu từ đường ấy, hàng ngày nhận sự giúp đỡ từ cô cháu gái lấy chồng gần đó. "Những ngày mới bị xe đâm, chân gẫy không thể đi lại được, mọi vệ sinh cá nhân của ông cụ tôi đều phải tự làm cả. Giờ thì cụ nhúc nhắc đi lại được rồi, cũng đỡ hơn. Ngày đủ ba bữa, tôi phải cơm bưng nước rót cho cụ. Mấy năm nay, được xã xét hoàn cảnh, ông cụ được hưởng trợ cấp 180 nghìn/tháng. Nhưng với chừng đó, chẳng thấm tháp gì. Tôi làm đơn đề nghị lên xã, huyện để được tăng mức trợ cấp mà từ năm ngoái đến giờ chưa được giải quyết...." bà Phạm Thị Thái (hơn 50 tuổi), cháu gái ông Trì cho biết.
Biệt tài của dị nhân
Trong gian từ đường đã xuống cấp, mọi vật dụng của ông Trì vỏn vẹn chỉ có vài bộ quần áo cũ mèm, chiếc quạt điện mà cánh của nó tựa như răng bà lão tuổi xế chiều, cái còn cái mất...Thứ duy nhất được gìn giữ, trân trọng trong số những đồ dùng cá nhân ấy, đó là một quyển sổ tay dày cộp. Tôi không khỏi ngạc nhiên bởi giữa những bộn bề thiếu thốn, rách nát, ông Trì lại có một thú vui tao nhã đến thế. "Đấy là cuốn sổ ghi những vần thơ đấy..." mắt ông Trì ánh lên chút vui vui. Rồi chẳng cần phải nhìn vào cuốn sổ, ông đọc vanh vách những vần thơ, mặc cho tôi lật giở từng trang viết trong sự ngỡ ngàng.
Ông Trì rất trân trọng những vần thơ
Cuốn sổ thơ của ông Trì có cả những bài thơ tự sáng tác, cả những bài yêu thích sao chép lại. Thơ ông viết khá khúc triết, vần điệu và chủ đề cũng khá phong phú. Có khi ông viết lên những tâm sự, khát khao ẩn sâu trong lòng mà người đời chẳng thể hiểu được, con người có chút gàn gàn, "không bình thường" như ông lại chất chứa đến thế. "Em là phụ nữ rất yêu chồng/ Biết ôm, biết ấp những đêm đông/ Biết giơ tay quạt khi nóng nực..." tiếng đọc thơ của ông Trì đều đều vang lên.
Ông Trì viết nhiều thơ, ngay cả sự kiện bị xe máy đâm gẫy chân hơn 1 năm về trước cũng được viết thành thơ. Thơ về cái xe hon-đa của ông ẩn ức, chất chứa cả sự oán trách. "Từ ngày có cái hon-đa/ Kẻ thì tan lạc, người ra cánh đồng.../Mình mà chết mất thì thôi/ Người ta mà chết phải đền bằng hai/ Hon đa ơi hỡi hon đa...". Ông Trì cứ mải miết đọc hết bài thơ này đến bài thơ khác, dường như lâu lắm ông mới có dịp nói chuyện, lâu lắm mới có người lắng nghe ông nói.
Nhìn những dòng chữ nắn nót khá đẹp, tôi đoán ông Trì xưa kia chắc hẳn cũng được ăn học đến nơi đến chốn. Bà Thái - cháu gái ông Trì - lắc đầu bảo: "Mẹ tôi kể, cậu Trì chỉ được học đến lớp 3 lớp 4 gì đó thôi. Nhà nghèo quá, hai chị em rau cháo từng ngày nuôi nhau, lấy đâu ra điều kiện học hành. Thế nhưng ông cụ chữ đẹp lắm đấy!". Quả thực chữ ông Trì đẹp. Thường thì ở vào tuổi già yếu như ông, nét chữ cũng sẽ run rẩy, xiêu vẹo đi ít nhiều. Nhưng cả cuốn sổ ghi chép, chữ vẫn đều tăm tắp, ngay cả những bài thơ viết gần đây nhất, chữ vẫn đẹp, rõ ràng và không thiếu nét, thảng lắm mới thấy một lỗi chính tả.
Bài thơ "Hon đa" được lão Trì sáng tác sau khi bị xe máy đâm gẫy chân
Tôi quay sang hỏi vui rằng thơ hay, chữ đẹp thế mà ngày trẻ không cô gái nào theo. Ông Trì dừng đọc thơ, tự hào khoe: "Ngày trước nhiều cô theo tôi lắm đấy. Tôi lên tận Hà Nội chơi, các cô ấy còn xin theo về...". Bà Thái thấy ông cậu mình nói có chút phóng đại, tủm tỉm cười đính chính nhỏ với tôi: "Họ thấy nghèo quá, tính khí lại thất thường nên chẳng ai dám chung sống cùng cô ạ...". Ông Trì lại tiếp tục đọc những vần thơ bằng chất giọng ồm ồm, nhịp đọc đều đều như cách học sinh thuộc vẹt trả bài cô giáo.
Theo vietbao
Về làng "thiên hạ đệ nhất nói tức" "Ai về Can Vũ mà coi - Nói tức chết người mà vẫn thèm nghe". Lần theo địa chỉ trong câu ca dao, tôi tìm đến ngôi làng được mệnh danh là "thiên hạ đệ nhất nói tức", đó là làng Can Vũ, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Một ngày ở làng nói tức Từ Hà Nội, men theo...