Đèo Hải Vân – “Đệ nhất hùng quan”
Quốc lộ 1A kéo dài từ Bắc vào Nam, đi qua nhiều vùng miền tươi đẹp của đất nước, nhưng có lẽ không nơi nào hùng vĩ, ấn tượng như đèo Hải Vân. Đây là một địa danh đặc biệt, không chỉ về cảnh sắc mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử.
Sừng sững Hải Vân Quan trên đỉnh đèo Hải Vân.
Những dấu ấn lịch sử
Đèo Hải Vân (hay đèo Mây, vì quanh năm mây che phủ) là con đèo chạy trên dãy núi Bạch Mã, có độ dài 20km, cao trung bình 500m so với mực nước biển và là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế với thành phố Đà Nẵng.
Theo sử sách, năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh mang quân đi đánh Chăm Pa. Khi tới đèo Hải Vân, ấn tượng trước cảnh quan hùng vỹ, nhà vua đã cảm tác làm thơ và gọi nơi này là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Vào thời Nguyễn, con đường đèo cực kỳ hiểm trở, lại nhiều thú dữ và kẻ cướp nên rất ít người dám qua lại. Vì thế, việc giao thương giữa hai miền Nam – Bắc gặp nhiều trở ngại suốt một thời gian dài.
Từ năm 1902 đến 1906, thực dân Pháp xây dựng tuyến đường sắt qua đèo Hải Vân, chạy quanh co theo sườn núi, qua 6 hầm chui và 18 cầu. Tuyến đường sắt đó ngày nay vẫn tồn tại, và đi tàu vượt đèo Hải Vân là một trải nghiệm khó quên với nhiều du khách khi được ngắm nhìn toàn bộ khung cảnh thiên nhiên hùng vỹ, hoang sơ của nơi này.
Năm 2005, hầm đường bộ xuyên núi Hải Vân được khánh thành và đưa vào sử dụng. Đây là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á với chiều dài 6,28km. So với tuyến đường cũ, hầm đường bộ này đã rút ngắn hành trình gần 14km, giảm thời gian đi lại và tạo sự thuận lợi, an toàn hơn.
Một đoạn đèo Hải Vân.
“Gạch nối” của Con đường di sản miền Trung
Nếu đi đường bộ, khi tới đỉnh đèo, du khách sẽ gặp một chiếc cổng rêu phong. Đó chính là Hải Vân Quan – điểm ranh giới giữa hai tỉnh, hai miền. Hải Vân Quan được xây từ thời Trần và có diện mạo như ngày nay nhờ được trùng tu vào thời Nguyễn (năm Minh Mạng thứ 7 – 1826). Hải Vân Quan nằm trên chính đường phân thủy của dãy núi Bạch Mã, cũng là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng ngày nay.
Hải Vân Quan được xây hình cổng cuốn vòm. Phía cửa hướng về Thừa Thiên Huế có tấm biển đá khắc chữ “Hải Vân Quan”, còn cửa hướng về Đà Nẵng có tấm biển khắc chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Hải Vân Quan thời Nguyễn là một quần thể gồm nhiều hạng mục, có chức năng như một cửa ải, pháo đài, và là tuyến phòng ngự quan trọng phía nam của Kinh đô Huế. Hình ảnh Hải Vân Quan cũng được khắc trên Dụ đỉnh trong bộ Cửu đỉnh đúc năm 1837, thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam ở thế kỷ XX, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ đã biến nơi đây thành chốt chiến lược quan trọng và xây dựng thêm nhiều hạng mục quân sự khác. Cùng với đó là nhiều trận đánh lớn khiến kiến trúc Hải Vân Quan bị biến dạng so với ban đầu. Sau chiến tranh, di tích này bị xuống cấp do không được quan tâm, bảo tồn đúng mức. Mãi tới năm 2017, Hải Vân Quan mới được xếp hạng là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Video đang HOT
Anh Lê Hoàng Vũ, một người dân ở Đà Nẵng cho biết: “Tôi và bạn bè thường chạy xe máy theo đường bộ cũ lên Hải Vân Quan ngắm cảnh. Chúng tôi cũng buồn khi thấy nơi đây bị xuống cấp. Mong các cơ quan chức năng sớm có biện pháp bảo tồn, trùng tu để di tích Hải Vân Quan có một diện mạo xứng tầm và trở thành điểm du lịch thu hút khách”.
Hiện tại, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế đang tích cực tiến hành công tác bảo tồn, trùng tu di tích Hải Vân Quan. Năm 2018, hai địa phương này đã phối hợp cùng Bảo tàng Lịch sử quốc gia thực hiện khai quật khảo cổ học và tìm thấy nhiều dấu tích kiến trúc, di vật quan trọng.
Ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết: “Hiện, hai Sở Văn hóa và Thể thao của tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng cùng Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đang phối hợp triển khai dự án Bảo tồn, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị di tích Hải Vân Quan. Cùng với đó là lập quy hoạch tổng thể và bổ sung hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ để phát triển du lịch gắn với phát huy giá trị di sản, đưa nơi đây trở thành điểm nhấn du lịch và là “gạch nối” ý nghĩa giữa hai địa phương cùng Con đường di sản miền Trung”.
2 lần chết hụt trên đèo Hải Vân và 13 chuyến đi "lần cuối" của một người Mỹ mê mẩn thuyền cá Việt Nam
Giải thích như thế nào về một cuốn sách chuyên về những con thuyền của Việt Nam, được viết bởi một người nước ngoài đã trải qua 13 chuyến đi bằng xe máy, mỗi chuyến kéo dài 6 tuần, trong 13 năm?
Câu chuyện hơi phức tạp một chút, nhưng là thế này:
Năm 1972, tôi là một chàng trai người Mỹ 26 tuổi, đã có gần một năm phục vụ trong quân đội Mỹ ở Việt Nam. Vì vậy, không giống như nhiều thanh niên Mỹ khác thời đó, tôi đã được chứng kiến rất nhiều thứ ở Việt Nam. Căn cứ của tôi ở trung tâm của Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam ở Biên Hòa. Công việc của tôi lại phải chạy khắp các tỉnh xung quanh Sài Gòn. So với những thanh niên cùng lứa trên chiến trường khi đó, tôi có một "cuộc chiến suôn sẻ" - theo nghĩa là không ai giết tôi, và tôi cũng không phải giết hại ai (hai điều này quan trọng như nhau).
Khi làm nhiệm vụ, tôi có một nam phiên dịch lớn tuổi lịch thiệp cùng đi khắp các làng quê và con đường thời đó. Gần như ngày nào tôi cũng ăn đồ Việt, ở trong các khách sạn địa phương. Khi tôi rời Việt Nam năm 1972, trong thâm tâm tôi đã biết, cuộc chiến tranh sẽ kết thúc thế nào và tôi không hề nghĩ rằng có lúc mình được quay trở lại.
Nhưng tôi đã gặp may.
Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã mê mẩn những con thuyền, nhất là thuyền đánh cá. Cha tôi thường đưa tôi đi câu khi tôi còn là một cậu bé. Sau này, tôi sở hữu một số chiếc thuyền nhỏ, hầu hết là thuyền có mái chèo và thuyền buồm. Trong suốt thời gian làm nhiệm vụ ở Việt Nam, dù chỉ làm việc trên đất liền, tôi vẫn ngắm nhìn những chiến thuyền đánh cá và thuyền thúng nhỏ ở Vũng Tàu, cũng như những con thuyền dài màu nâu khi tôi đến Bến Tre và Cần Thơ. Tôi đã chú ý và rất hào hứng với những chiếc thuyền của Việt Nam.
Hình ảnh thuyền Việt Nam trong cuốn sách ảnh của ông Ken Preston.
Khi về từ chiến trường và quay lại cuộc sống của một thường dân (tôi đã mệt mỏi với cuộc sống trong quân ngũ và cả việc sống trên bờ), tôi gia nhập một đoàn đánh cá trên một chiếc thuyền dài 35m, chủ yếu ở duyên hải Oreagon và Washington. Đây là một giai đoạn khó khăn với những ngư dân Mỹ, khi công việc đánh bắt chẳng được bao nhiêu và thủy hải sản cũng rẻ mạt. Vì thế, tôi chuyển sang việc xây dựng các bến tàu và bến cảng, từ California đến Alaska. Cứ thế, cuộc đời tôi gắn với sông nước và những con tàu. Công việc này nuôi sống tôi và gia đình trong 40 năm.
Trong thời gian đó, tôi mua hoặc đóng một số con thuyền nhỏ và có vài chuyến "solo" đến vùng biển Mexico và Canada cũng như ở địa phương (nhà tôi ở gần Seattle).
Năm 2004, tôi nhìn thấy một bức ảnh quảng bá du lịch Việt Nam, những cây cọ, biển xanh, cát trắng, khách du lịch đang đùa sóng, tắm nắng và. . .hai chiếc thuyền đánh cá màu xanh tuyệt đẹp đang neo đậu ngoài khơi.
Đó có lẽ là một cảnh bãi biển ở Nha Trang. Nó khiến tôi cảm động. Tôi quyết định tự mình phải đến đó chiêm ngưỡng, chụp ảnh và ghi chép. Tôi nghĩ biết đâu tôi có thể ra một cuốn sách.
Ban đầu, tôi lên kế hoạch một chuyến đi 6 tuần vào tháng 1 và tháng 2 năm 2005. Kế hoạch đơn giản là bắt đầu từ miền Bắc và xuôi xuống phía Nam, càng gần biển càng tốt.
Tôi đã dự tính trước, ngay cả khi có xe buýt và tàu hỏa, tôi vẫn muốn tự do hơn để đi đến các bến cảng và cửa sông, tìm những bãi biển nơi các con thuyền cập bến. Tôi đã nghĩ đến một chiếc xe đạp, nhưng ở tuổi 59, tôi không còn đủ sức khỏe để đạp xe hàng nghìn km với lịch trình dày đặc. Về tài chính thì xe hơi cá nhân hơi quá sức với tôi, và dù sao thì tôi cũng thích đi du lịch bằng xe máy, trong khi ở Việt Nam có rất nhiều xe máy.
Nhưng có 2 điều tôi đã tính toán sai trong kế hoạch vốn ban đầu chỉ định kéo dài 1 mùa, mà thực tế là giờ đây đã kéo dài đến 13 mùa của tôi.
Đầu tiên là, tôi quá thích thú với chuyến đi. Năm đầu tiên, tôi đi hàng ngàn km, từ Hà Nội lên Lào Cai (tôi đã đi Bắc Hà, Cán Cấu, Lào Cai và Sa Pa), chỉ có một tuần nghỉ ngơi để chắc rằng chiếc xe Minks cũ mà tôi mới mua vẫn chạy tốt, sau đó là từ Hà Nội vào Cam Ranh, trên trục đường Quốc lộ 1, nơi tôi rẽ về phía Tây, hướng về các ngọn núi đến Đà Lạt (tôi chưa từng đến Đà Lạt trong thời gian chiến tranh Việt Nam và đơn giản là tôi luôn muốn đến đó). Và từ Đà Lạt, tôi đi qua thành phố Hồ Chí Minh, đến Bến Tre, Cần Thơ, Rạch Giá và Hà Tiên.
Tuy vậy, quãng đường đầu tiên của chuyến đi đó thực sự khốn khổ, mưa gió liên miên, trời lạnh, các cung đường thì đang được tu sửa. Tôi đã không dừng lại, và gần như đi qua con song Ròn (sông Loan, còn gọi sông Ròn ở Quảng Bình) đầy các con thuyền đánh cá rực rỡ. Lúc đó, điều duy nhất tôi nghĩ đến là tránh mưa và đi về nơi thời tiết ấm hơn ở phía Nam. Nhưng đi qua cây cầu khoảng một cây số, tôi nhận ra mình vừa đi qua chính điều mà tôi muốn tìm kiếm. Vì vậy, tôi quay xe lại, chụp một vài bức ảnh và sau đó tiếp tục đi về phía Nam, dưới những cơn mưa phùn.
Trước đó, khi đến Thác Bạc ở Sa Pa, tôi gặp một vài người. Họ hứa nhất định sẽ dẫn tôi đi thăm thú khi tôi đến Huế. Vì vậy, tôi dành thêm 2 ngày ở Huế, nghe nhã nhạc cung đình trên một chiếc thuyền rồng xuôi dòng sông Hương vào buổi tối, đi ra bãi biển Thuận An, nơi tôi lần đầu nhìn thấy chiếc thuyền thúng đang lướt sóng.
Quan trọng hơn, ở đây, tôi đã gặp người chủ khách sạn và người thợ sửa xe mà sau này tôi còn gặp lại nhiều lần trong nhiều năm sau. Huế trở nên vô cùng quan trọng với tôi!
Khi tôi vượt qua đèo Hải Vân, thời tiết thay đổi. Lạnh ẩm được thay thế bằng nắng ấm và cuối cùng, tôi giảm tốc độ, bắt đầu nghiêm túc tìm kiếm các con thuyền và bến cảng. Tôi bị lạc đường khi từ Đà Nẵng sang Hội An nhưng cuối cùng cũng đến được và bắt đầu "đi săn" các con thuyền.
Hội An dĩ nhiên đã thay đổi rất nhiều, nhưng vào năm 2005, bạn có thể đi bộ dọc theo bờ sông, lên một chiếc thuyền xuôi dòng Thu Bồn. Người phụ nữ lái thuyền thậm chí sẽ đồng ý để bạn chèo giúp. Bạn có thể ghé vào một xưởng đóng thuyền lớn nhộn nhịp: một chiếc thuyền nước sâu đẹp long lanh mới được hạ thủy và các công nhân đang đóng một chiếc thuyền khác.
Các ngư dân Việt Nam đóng thuyền ở Cửa Lò, gần Vinh.
Bạn có thể đi dọc theo con sông, ra khỏi thị trấn và khám phá tất cả các loại thuyền ở nơi đây. Hoặc bạn có thể đi phà đến Kim Bồng và còn thấy nhiều thuyền hơn nữa.
Từ Hội An, tôi chạy qua Cam Ranh, ngược lên Đà Lạt rồi xuôi theo Quốc lộ 14 đến TP. Hồ Chí Minh và qua đó, đi trên tuyến đường zig-zag qua đồng bằng sông Cửu Long, đến Bến Tre, Cần Thơ, Rạch Giá, Hà Tiên và quay ngược trở lại.
Phan Thiết-Mũi Né, Nha Trang, Quy Nhơn, ăn Tết ở Hội An, về Huế qua đường Hồ Chí Minh (nơi tôi may mắn thoát chết sau khi suýt rơi khỏi vách núi) và cuối cùng là dọc Quốc lộ 1 về Hà Nội.
Nhưng còn quá sớm để bay về Mỹ, nên sau một thời gian ngắn ở Hà Nội, tôi lại đi lên Tây Bắc trong vài ngày.
Tôi đã đi một chặng đường dài, đôi khi trong những tình huống nguy hiểm. Tôi đã suýt chết vì tai nạn giao thông 2 lần trong một ngày khi ở trên đèo Hải Vân và ít nhất một lần nữa trong những ngày sau đó. Tôi cũng đã ốm nặng ở Bến Tre và được chăm sóc nhiều ngày bởi những con người tuyệt vời trong một khách sạn nhỏ miền quê. Nơi nào tôi đến cũng được đối đãi tử tế. Ở nơi nào tôi cũng rất vui vẻ và gặp gỡ nhiều người thú vị trên khắp đất nước. Đến giờ, không biết có bao nhiêu thợ máy đã sửa chiếc Minsk tội nghiệp của tôi để tôi có thể tiếp tục chuyến đi.
Tôi đã chiêm ngưỡng đủ để biết rằng tôi vẫn yêu Việt Nam, thậm chí còn yêu hơn trước. Tôi đã tìm thấy hàng nghìn chiếc thuyền ở các bến cảng, cửa sông và bãi biển, nhưng tôi biết mình đã bỏ lỡ nhiều hơn những gì tôi đã được thấy, vì vậy tôi phải quay lại, chỉ để hoàn thành công việc, và được chiêm ngưỡng thêm Việt Nam!
Và sau đó là những bức ảnh. Chiếc máy ảnh cũ của tôi bị lọt sáng ở đâu đó trên đường đi và khoảng một phần ba số ảnh đã bị hỏng với những vệt màu đỏ và vàng trên những ảnh được in ra.
Vì vậy, tôi phải quay lại đất nước này một chuyến nữa (với chiếc máy ảnh đã được sửa) và cũng để ngắm nhìn thêm rất nhiều bờ biển mà trong chuyến đi đầu tôi đã bỏ lỡ. Và cứ như thế, tôi đã đi 13 chuyến ngang dọc Việt Nam, lần nào cũng tưởng là lần cuối, nhưng càng đi, tôi lại càng thấy có thêm nhiều thứ để chiêm ngưỡng, một tuyến đường khác để thử, một con thuyền thú vị khác để săn đuổi, những con người tôi phải ghé thăm, luôn luôn là như vậy. Luôn luôn là "chỉ một chuyến nữa thôi"!
Vậy là cuối cùng, sau 13 chuyến đi, cuốn sách cũng ra đời, nhưng giờ tôi đã là một ông già và những ngày rong ruổi trên xe máy đã kết thúc. Cảm ơn Việt Nam!
Thiên nhiên tươi đẹp, sống động qua các tác phẩm đoạt giải nhiếp ảnh Xin giới thiệu những bức ảnh thiên nhiên đoạt giải thưởng nhiếp ảnh quốc tế PX3 (Prix de la Photographie Paris) của Pháp. Đây là giải thưởng uy tín nhất châu Âu tôn vinh các tác phẩm nhiếp ảnh xuất sắc, độc đáo và sáng tạo. Nhìn từ xa, hàng cây tựa như những chiếc lá xếp thẳng hàng. Những con đom đóm...