Đến Bến Tre thưởng thức đặc sản dân dã
Bì cuốn, bánh canh bột xắt hay cháo cua đồng là những món ngon hiếm hoi chỉ có ở đất ba cù lao. Bến Tre là nơi sản sinh ra những món ăn đặc trưng của đất Tây Nam Bộ. Tuy dung dị nhưng sự căng tràn phóng khoáng đã được gửi gắm vào từng món ăn dân dã như chính bản tính con người nơi đây.
1. Chuối đập
Món ăn vô cùng đặc trưng của xứ dừa này không những là món khoái khẩu của các cô cậu thích ăn vặt mà còn là nỗi nhớ nhung của những người xa quê. Chuối đập khá khó tìm, thường chỉ bán ở những hàng gánh rong ngoài lề đường.
Món này cũng có thể tự làm ở nhà chỉ với một nải chuối và lò nướng. Chuối được lựa chọn phải là chuối Xiêm vỏ còn xanh vừa chuyển vàng, người miền Tây hay gọi là “chín hường hường”. Nếu lựa chuối chín quá thì nướng lên bị nhão, không ngon. Một trái chuối cắt dọc rồi bỏ lên lửa than, nướng chừng 5 phút cho vừa ráo nước rồi đem xuống, bỏ vào “khuôn” có thể là một chiếc túi nilon rồi đập dẹp. Sau đó bỏ chuối lên nướng tiếp, lật liên tục để không bị khét cho đến khi màu chuối từ trắng đục chuyển sang vàng ngà, chuối đạt độ xốp nhất định, sờ vào thấy giòn thì lấy xuống.
Nước cốt dừa đun lên cho đến khi đặc quánh, thêm chút hành xắt để không ngấy là đã có ngay nước cốt để chấm với chuối đập rồi. Đây là món ăn chơi, mỗi đĩa bưng ra gần 10 lát mà giá chưa tới 5.000 đồng. Những ngày mưa lành lạnh, núp dưới mái dù của quán ven đường nào đó, bóc từng miếng chuối vừa giòn trên bếp xuống rồi xì xụp húp nước cốt tới muỗng cuối cùng.
2. Bì cuốn
Miền Tây là xứ của các món cuốn. Bì cuốn cũng là tinh túy nằm một trong số đó. Món ngon vặt miền Tây này được chính xứ sở sản sinh ra nó đưa lên hàng đặc sản. Ngoài những thành phần phụ trợ cơ bản như rau, bún, thì bì cuốn không có thịt với tôm mà cuốn bằng “bì” – hỗn hợp của thịt ba rọi với da heo cắt nhỏ.
Thịt ba rọi tách da rồi quay trên chảo, nêm nếm gia vị cho đến khi thịt chuyển màu vàng ngà rồi bắt xuống cắt đoạn nhỏ. Da luộc riêng rồi thái mỏng thành đoạn dài chừng 5 cm. Cũng có thể dùng tai heo để biến tấu thêm. Sau đó trộn hai thành phần trên lại rồi nêm nếm gia vị thêm một lần nữa cho vừa miệng, cho thịt sắc xuống đậm đà hơn.
Một thành phần nhỏ quyết định gần như là “bản sắc” của món ăn này chính là thính. Để làm thính, phải dùng gạo rang lên cho đến khi cháy vàng rồi bỏ vào cối xay tiêu xay nhuyễn ra. Sau đó trộn thính chung với hỗn hợp thịt da ở trên làm cho bì không bị ngấy mỡ mà vẫn rất dễ ăn.
Để hỗn hợp thấm đều gia vị khoảng 15 phút rồi có thể chế biến món ăn ngay. Bánh tráng nem trải ra, bỏ nhúm bún, mấy cọng rau xắt nhỏ, một muỗng bì chấm nước mắm tỏi ớt thì không còn gì bằng. Ngoài bì cuốn, phần bì trên còn có thể làm món bún bì.
3. Bánh canh bột xắt
Miền Tây là xứ sở của bánh canh bột xắt, những vùng khác còn gọi là bánh canh bột gạo. Tựu chung, nguyên liệu chính của món bánh canh này là bột gạo, tùy vào cách chế biến mà có tên gọi khác nhau. Để làm bánh canh bột xắt, người nấu phải cán bột ra thớt rồi xắt từng thanh mỏng bỏ vào nồi nên có tên gọi là bánh canh bột xắt.
Bánh canh bột xắt thường là bánh canh vịt chấm với nước mắm gừng. Nhiều nơi người nấu cho tép non hay tôm khô vào để nước ngọt hơn. Thứ nước lèo trắng đục do bột gạo tạo nên làm cho bánh canh bột xắt khó mà lẫn được với các loại khác. Ở Sài Gòn và một số tỉnh thành khác cũng có phổ biến món này nhưng thưa thớt. Khi ăn bánh canh bột xắt ở Bến Tre, đừng quên kêu thêm chén huyết nếp béo ngậy.
4. Cháo cua đồng
Về xứ ruộng mà không ăn cua đồng thì coi như chưa về ruộng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long ruộng lúa bao la, cua đồng là sản vật thiên nhiên ban tặng cho người dân miệt ruộng. Cháo cua đồng phải nấu trong nồi đất mới bài bản, theo như cách của lưu dân phương Nam từ xưa tới đây đã biết cách dùng nồi đất nấu nướng để giữ nguyên hương vị của món ăn.
Cua đồng tách vỏ lấy gạch để nấu nước dùng, còn phần cua xay nhuyễn làm riêu cua. Cách làm này chắc hẳn không còn xa lạ với nhiều người dù ở Bắc hay Nam. Trong nồi cháo cua đồng ở Bến Tre, người ta thường cho cá, thịt, nấm, trứng vịt lộn, tôm. Quyết định cháo cua đồng ngon hay dở là ở rau ăn kèm. Cháo thường cùng rau đắng, ngắt đọt non bỏ vào nồi để vị đắng của rau át vị tanh của cá, cua. Thi thoảng, những ngày mát trời người ta còn bưng ra cho rổ rau đắng nhưng mát. Để tăng độ ngọt cho nồi cháo, rổ rau ăn kèm còn có mướp hương, mồng tơi, rau ngót, kèo nèo, bông bí, bông thiên lý tùy mùa.
Video đang HOT
5. Bánh xèo ốc gạo
Bánh xèo không còn là món xa lạ với người Nam Bộ nhưng bánh xèo ốc gạo lại là món đặc sản của cồn Phú Đa (huyện Chợ Lách – Bến Tre). Cồn này là một trong những nơi hiếm hoi ở miền Tây có số lượng sinh sản của ốc gạo đông đảo nhất. Hàng năm, ốc gạo sinh sôi nhiều nhất vào tháng 4-5 âm lịch, nhưng con ốc gạo đạt đỉnh điểm về số lượng phải vào Tết Đoan Ngọ.
Vào dịp này, khách du lịch các nơi đổ về để thưởng thức các món ngon làm từ ốc gạo. Loại ốc này có thể chế biến thành hàng chục món, từ luộc hấp đơn giản nhất đến bóp gỏi, xúc bánh xèo, chiên xào đủ loại. Trong đó, bánh xèo vẫn là món thông dụng và tiêu biểu nhất. Thay vì những nguyên liệu thông thường như tôm thịt, nấm mối, thì người ta có thể gắp miếng bánh, xúc muỗng nhân, bỏ vài cọng rau, miếng dưa chua rồi cuốn hết trong lá cách. Chấm nguyên cuộn bánh vô chén nước mắm tỏi ớt, con ốc gạo ăn sần sật ngòn ngọt cứ khiến người ta muốn làm thêm cuốn nữa.
Theo amthuc365
Vũ khúc chuối trong ẩm thực Tây Nam Bộ
Trái chuối chín thơm ngọt, nhiều chất bổ lại lành tính nên người lớn, trẻ em đều ưa thích. Chuối sống có thể nấu ăn thay cơm đỡ lòng khi giáp hạt, lá chuối, cây chuối được tận dụng tối đa để phục vụ cho đời sống con người miền Tây.
Nói đến những loại cây trồng quen thuộc trong vườn nhà người ta có thể kể hàng chục cây trái khác nhau: loại cho vị chua ngọt như cam, quýt, bưởi, xoài, mận, khế, ... loại cho vị ngọt thơm như mít, sầu riêng, măng cụt, vú sữa, ... đặc biệt là không thể vắng mặt cây chuối.
Bánh tét nhân chuối
Chuối có tới năm bảy loại, mỗi loại chuối đều có hương vị thơm ngon riêng, tạo ra nét đặc biệt không thể lẫn với những loại khác. Bề ngoài của các loại chuối lại chung vẻ bề ngoài giống nhau.
Bánh dừa nhân chuối
Thân cây tròn, thấp, trơn bóng, và có cây còn to bằng cả cái cột nhà. Thực ra đây chỉ là thân giả, còn thân chính được dân gian quen gọi là củ hũ chuối nằm dưới đất. Từ củ hũ này mọc lên nhiều thân chuối khác nhau. Vì thế, ca dao có câu hỏi khó:
"Chuối khoe lòng chuối còn trinh/ Chuối ở một mình sao chuối có con?".
Bánh chuối chiên
Lá cây xanh non, to, dài và các gân đối xứng nhau. Thế nhưng lá chuối khô lại có màu nâu, khi lá rủ xuống nó có độ dai nhất định. Hình ảnh tàu chuối được người bình dân dùng để răn dạy chuyện tình nghĩa, đạo lý:
Chuối nướng
"Chị em như chuối nhiều tàu/ Tấm lành che tấm rách đừng nói nhau nặng lời".
Bắp chuối có màu đỏ, thuôn dài. Nõn chuối xanh non, mịn và mỏng. Suốt đời, cây chuối chỉ cho một buồng thông thường mỗi buồng có từ năm đến hơn chục nãi. Mỗi nãi trên dưới chục trái.
Tuổi thơ của trẻ con miền sông nước gắn liền với cảm giác hồi hộp, lo sợ, sung sướng hòa lẫn khi năm bảy đứa cùng ôm thân cây chuối lần đầu tiên bì bõm trong lòng con rạch trước nhà để tập lội; hay phập phồng, nhấp nhổm ngồi trên chiếc bè chuối chông chênh chống ngang qua con sông nhỏ hái rau giúp mẹ, ...
Bắp chuối
Những bẹ chuối tươi được dùng để ốp các cây cột dựng rạp đón khách trong ngày lễ cưới hỏi. Màu vàng xanh vừa tăng thêm vẻ đẹp vừa in đậm dấu ấn khó phai nhòa của tình yêu đôi lứa.
Buồng chuối
Trong lễ cúng tống ôn tống gió trong đời sống dân gian miền đất này, thân chuối được kết thành chiếc thuyền trang hoàng rực rực để "ôn binh" làm phương tiện lên đường, khỏi phải quấy rối xóm làng. Tương tự, trong ngày cúng Sel Dol-ta của người Khmer, người ta cũng dùng bẹ chuối làm thuyền để tiễn đưa ông bà về cõi hư vô!
Trái (quả) chuối
Thân chuối khi đã đốn buồng rồi lại được tận dụng xắt, bằm nhuyễn cho heo, gà vịt ăn.
Cứ mỗi khi gần tết hay nhà chuẩn bị cúng giỗ ông bà thì người ta xách dao đi rọc lá chuối về để gói bánh. Bánh tét, bánh ít đều được gói từ lá chuối xiêm vừa xanh vừa dẻo. Ngoài đồng về bắt được con cá lóc đem nướng trui, vói tay ngắt tàu chuối để cá lên mà cạo tro rồi dùng nó để dọn luôn món ăn dân dã này.
Bánh chuối hấp
Lá chuối xanh còn được dùng để gói những chiếc nem, những đòn chả vừa xinh xắn vừa có hương vị đậm đà. Lá chuối khô cắt về cho các loài vật nuôi trốn trú muỗi mòng.
Tàu chuối, bẹ chuối khô được tận dụng làm dậy buộc. Dây chuối được dùng để đươn võng. Nó cũng được dùng làm quai chèo, giúp cho những chiếc ghe xuồng di chuyển được trên sông nước.
Ngày trước, khi vợ chồng trẻ cưới nhau được vài năm, cha mẹ cho ra riêng, công việc đầu tiên họ thường là trồng tỉa chăm sóc cho khu vườn của mình và một trong những cây trồng đó là chuối. Chuối ở miệt này có nhiều loại. Từ cây chuối hột còn đậm chất hoang dã đến chuối xiêm, chuối cau, chuối già, chuối sáp, chuối táo quạ.
Gà vịt luộc trong nồi cháo đem ra xé phay thì gỏi để trộn chắc chắn phải là chuối ghém. Chuối ghém là thành phẩm được xắt từ cây chuối non đã cao cỡ đầu người. Thân chuối tươi non được xắt nhuyễn bóp trong nước giấm rồi vắt khô, cho chúng ta thứ rau vừa giòn vừa mềm lại ngọt ngào.
Thịt gà vịt trộn vào thêm ít lá rau răm, ót, ... thì khó có món ngon nào sánh kịp. Cũng có khi người ta trộn chuối ghém với các lóc nướng vàng, ... Tương tự, chuối ghém, dân quê đợi khi chuối trổ buồng xong thì cắt bắp chuối để chế món ăn.
Bắp chuối xắt nhuyễn bóp sơ qua nước dấm chua pha loãng để loại bỏ trái non và chất chát rồi trộn với nước cốt chanh, nêm chút đường, muối làm thành món gỏi. Thực phẩm được dùng nhiều nhất là khô. Khố sặc rằn, khô cá lóc, cá chạch đều trở thành những món ăn hảo hạng.
Độc đáo người dân quê quê ở đây còn trộn gỏi bắp chuối với ốc đắng. Loại ốc này con nhỏ hơn ốc lát, chúng sống nhiều dưới các đám rể ô rô, mái dàm ven bờ sông rạch. Xúc ốc về ngâm qua trong nước vo gạo hoặc nước muối, ớt cay cho chúng nhả hết cặn, nhớt, rửa sạch rồi luộc với lá ổi, lá sả hay lá chanh cũng được.
Cho ốc vào rổ, xốc cho ốc bung hết mài, lể mình ốc ra khỏi vỏ, ngâm rửa sơ qua nước dấm loãng, để ráo rồi trộn vào bắp chuối đã làm sẵn. Thêm ít ngò, húng thơm, ít lát ớt đỏ nữa là có món ngon để đãi bạn bè kèm theo vài ba chung rượu nghĩa tình.
Trong các tô bún nước lèo ở miệt Trà Vinh - Sóc Trăng - Bạc Liêu bên cạnh rau muống bào mỏng thì cũng không thể nào thiếu bắp chuối xắt sợi. Bắp chuối còn được để chung với các loại rau rừng khác khi ăn cá kho, lẩu mắm.
Chuối phơi khô
Nhưng có lẽ phần quan trọng nhất của cây chuối chính là trái chuối. Người miền Tây ăn chuối từ khi chuối còn xanh cho đến khi chín rục.
Bữa nhậu rượu vua với năm ba người ngay tại vườn nhà khi thiếu mồi thì một hai trái chuối chát, ít trái me, trái bần với vài cục muối cũng chơi mát trời ông địa! Người bình dân đã sánh nó ngon như cao lương mỹ vị vua chúa chưa chắc được dùng lên gọi là rượu vua (?) hay danh từ ấy được dịch nghĩa từ rượu đế (?). Xem ra ngôn ngữ dân gian đáo để thật!
Chuối chát xắt mỏng ăn kèm với cá lóc nướng hay chấm cá, mắm kho vừa ngon miệng vừa phảng phất dấu ấn của những ngày đầu tiền nhân đến vùng đất này khai hoang lập nên xóm làng.
Có loại như chuối sáp, trái nhỏ, ruột vàng chỉ dùng để luộc, chứ không ăn chín. Người ta đốn chuối đã già về cắt ra từng nãi rồi bỏ vô nồi luộc sôi. Chuối nấu chín ăn vừa ngọt vừa bùi.
Chuối xiêm, chuối già thì thường để cho chín mới ăn. Ngọt nhất là chuối chín bói.
Chuối xiêm hườm gần chín được chặt cả buồng phơi nắng gắt ngoài sân cho bớt mủ rồi bẻ từng trái lột bỏ lớp vỏ xanh bên ngoài, dùng dao bén xẻ nhẹ một đường dọc thân chuối rồi bỏ lên bếp than để nướng. Dưới sức nóng của bếp than, trái chuối dần khô săn lại, da vàng tươi, thơm lựng.
Có người cầu kỳ hơn còn lấy hành phi với mỡ để xối lên. Món ăn dân dã này thường xuất hiện trong những buổi chiều tà hay những đêm đông gió se lành lạnh. Điều thú vị là trái chuối bên ngoài còn sống, cứng nhưng bên trong thì hườm vàng mềm, dẻo, ngọt. Kết hợp với vị béo, thơm của hành phi đã đủ sức quyến rủ trẻ con, phụ nữ miệt vườn đến với món ăn giản dị miền sông nước.
Cầu kỳ hơn thì người ta dùng chuối để nấu kiểm. Kiểm là món chè thập cẩm nấu toàn bằng trái cây, củ quả. Dân quê miệt này thích nấu kiểm trong những bữa chay, ngày sóc, vọng. Kiểm nấu để cúng Phật, cúng ông Địa, Táo quân, sau là ăn chơi vừa ngon vừa no bụng.
Chuối cũng dùng để làm bánh. Ngoài bánh chuối nướng, người ta còn làm bánh chuối hấp và bánh chuối chiên. Chuối xiêm chín còn được dùng làm nhưn bánh tét, bánh lá dừa.
Còn nữa, chuối chín, đem ép phơi khô. Chuối lột sạch vỏ, đặt trái chuối vào giữa hai miếng lá chuối tươi, rồi dùng thớt ép nhẹ cho trái chuối dẹp mỏng ra. Phải ép thật khéo tay để miếng chuối không mỏng quá sẽ khó gỡ, còn dày quá thì lâu khô. Chuối ép xong trải trên những miếng vỉ tre đươn, phơi ba bốn nắng thì khô. Miếng chuối thơm mùi nắng, vừa dẻo vừa ngọt, là thứ quà ăn hấp dẫn đối với trẻ con miền quê. Ai đã từng thưởng thức qua có lẽ sẽ khẳng định rằng nó ngon không kém bất cứ thứ quà bánh nào thời hiện đại.
Cũng từ những miếng chuối khô đó, chịu khó một chút, người ta đem ngào đường để đổi khẩu vị. Để chuối khô không bở, người ta dùng dao bén xắt theo chiều xuôi, đều đặn giống như cọng đu đủ bào. Rồi lấy thêm một ít đường mật, củ gừng gọt sạch xắt sợi, mua ít đậu phộng về rang vàng, đâm bể ba, bể bốn, dừa khô lột vỏ, nạo rồi vắt lấy nước cốt.
Hương vị chuối ngào đường dân dã ngọt lịm lòng người, nó khiến cho ai đã từng thưởng thức thì mãi bâng khuâng như tâm trạng của nhân vật trữ tình trong câu ca dao quen thuộc:
"Em mời anh miếng chuối ngào đường/ Bên tình bên nghĩa anh thương bên nào!"
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường ảnh hưởng sâu rộng, nền kinh tế tự túc tự cấp dần lùi xa, nhiều nét văn hóa truyền thống cũng dân mai một, võng vải, võng ni lon chứ ít ai xài võng dây chuối, dây lát. Phương tiện đi lại chủ yếu trên sông vẫn là ghe xuồng nhưng dùng máy đuôi tôm để làm lực đẩy, mái chèo ngày trước nay cùng dần vắng bóng khúc sông quê, nhưng không vì thế mà cây chuối, trái chuối mất đi nhiều vị thế vốn có của nó.
Trái chuối chín thơm ngọt, nhiều chất bổ lại lành tính nên người lớn, trẻ em đều ưa, đều thích. Chuối sống có thể nấu ăn thay cơm đỡ lòng khi giáp hạt, lá chuối, cây chuối đều được tận dụng tối đa để phục vụ cho đời sống con người miền Tây vốn nổi tiếng với phong cách phóng khoáng, trí tuệ và sáng tạo.
Theo Hai Miệt Vườn (Dân Việt)
Món rắn mối miền quê Tây Nam Bộ Ở miền quê Tây Nam Bộ có nhiều rắn mối, nhất là vào những tháng 11, tháng Chạp sau khi con nước lũ rút dần. "Con chi rọt rẹt sau hè/ Hay là rắn mối tới ve chuột chù" - Ca dao Rắn mối con lớn nhất bằng ngón chân cái, dài khoảng một gang tay, có lớp vảy đen óng ánh trên...