Đến Bắc Giang nhất định phải thử nham trám – món ăn ngọt bùi hấp dẫn, chế biến cầu kỳ, dư vị khó quên
Món nham trám nổi tiếng với vị ngọt đậm của cá, thịt nướng; béo bùi của trám đen quyện với hương thơm của lạc, vừng và các gia vị rau thơm.
Nham trám trở thành đặc sản nức tiếng gần xa nhưng với người dân làng Vân Xuyên, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang thì đây là món ăn “có một không hai”, thường dùng để thiết đãi khách quý.
Trám đen khá phổ biến ở một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc và được trồng nhiều ở Bắc Giang, Lạng Sơn. Được ví như một loại thực phẩm bổ dưỡng nhưng thơm bùi, nổi tiếng nhất phải kể đến trám đen của hai làng Vân Xuyên và Vạn Thạch ở ven sông Cầu.
Ngọt bùi nham trám Vân Xuyên
Cả xã Hoàng Vân có gần 3.000 cây trám, riêng làng Vân Xuyên trồng hơn 1.000 cây trám đen, cây từ 7-10 năm tuổi cho thu hoạch 2-3 tạ quả mỗi năm. Trám đen thuộc loại cây thân gỗ, trung bình cao từ 15-20m, đường kính có thể tới 90cm, sống trên 100 năm, ra hoa vào tháng 2, chín quả vào tháng 7.
Trồng trám tưởng dễ mà khó, sau 7-8 năm từ khi gieo hạt mới biết đâu là cây đực, đâu là cây cái bởi cây trám đực chỉ được cái tốt mã, còn trám cái sẽ cho quả trám. Quả trám hình thoi, khi non có màu xanh nhạt, khi chín chuyển màu tím đen, thịt trám màu hồng thẫm.
Trám đen được trồng nhiều ở Bắc Giang, Lạng Sơn
Quả trám khi chín có thể chế biến thành các món ăn ngon được nhiều người ưa chuộng như trám om kho cá, xôi trám, trám ngâm mắm, trám ngâm tương…
“Phi trám bất thành nham”
Đây là câu cửa miệng quen thuộc của người làng Vân Xuyên khi nói về món nham trám được chế biến vô cùng công phu và tỉ mỉ.
Video đang HOT
“Phi trám bất thành nham”
Thời gian chuẩn bị làm nham trám mất gần nửa buổi và mỗi gia đình sẽ có bí quyết riêng để tạo nên hương vị đặc trưng cho món này.
Nguyên liệu làm nham trám gồm: Trám đen (loại ngon, cùi dày), cá chép (hoặc chọn cá tùy theo sở thích), thịt ba chỉ, khế chua, hoa chuối, lá gừng, lá nhội, lá đinh lăng, lá xương sông, lá vừng non, lá núc nác, lá đơn, lá tía tô, lá sung, mùi tàu, lạc giã nhỏ, vừng…
Nguyên liệu làm nham trám không thể thiếu các loại rau rừng
Các loại lá này được thái thật nhỏ để thấm đều gia vị, sau đó trộn với nhau theo tỉ lệ nhất định. Từng công đoạn và quy trình chế biến đều phải tuân thủ chặt chẽ, bởi nếu lỡ tay bớt đi một vài nguyên liệu thì món nham trám sẽ không còn hoàn hảo.
Chế biến công phu
Để có món nham trám chuẩn vị, người đầu bếp phải rất kỳ công khi sơ chế thực phẩm và các loại rau gia vị. Nguyên liệu không thể thiếu của món nham chính là trám đen tách vỏ, bỏ hạt lấy cùi rồi thái nhỏ.
Trám đen tách vỏ, bỏ hạt lấy cùi rồi thái nhỏ
Trám đen rửa sạch, luộc sơ qua với nước muối loãng. Đợi khi trám nguội thì đổ tất cả vào một cái vại, sau 2-3 ngày mới dùng những quả trám này để chế biến món nham. Công đoạn “om trám” này khá quan trọng, cần phải đúng yêu cầu kĩ thuật để khi chín, trám ăn không quá cứng nhưng lại không được mềm, đảm bảo hương vị bùi, béo đặc trưng.
Trước khi ăn 1 ngày, cá sẽ được làm sạch, tẩm ướp gia vị rồi đem nướng (nướng 3 lửa, phơi 2 sương). Tuy nhiên hiện nay, thời gian sơ chế cá đã rút ngắn, sau khoảng 30 phút là có món cá nướng thành phẩm. Cá được gỡ bỏ hết xương, rang trên lửa vừa cho thịt cá săn lại (nếu còn ướt thì cá sẽ tanh, nhưng rang khô quá sẽ làm miếng cá bị teo cứng).
Cá được làm sạch, tẩm ướp gia vị rồi đem nướng
Chọn miếng thịt ba chỉ tươi, vừa có nạc, vừa có mỡ để món ăn không bị khô hay quá ngấy. Nướng thịt ba chỉ trên than hồng sẽ dậy mùi thơm đặc trưng, có màu vàng bắt mắt. Miếng thịt sau khi tẩm ướp và nướng chín sẽ được bỏ bì, dùng dao sắc thái thật mỏng.
Thưởng thức tinh tế
Tất cả các nguyên liệu thái nhỏ và trộn đều với nhau theo một tỉ lệ nhất định. Cá được trộn cùng trám vì cá làm cho trám mềm hơn, còn trám sẽ chiết bớt mùi tanh của cá. Linh hồn của món nham chính là tương. Người ta thường nêm chút cái tương để nham trám thêm đậm đà.
Đặc sản nham trám Vân Xuyên quyến rũ thực khách
Trải lớp bánh đa nem ngoài cùng, tiếp đến là lá nhội hoặc lá núc nác, gắp một đũa nham trám làm nhân, cuốn chặt tay. Nham trám chấm cùng nước tương làm dậy lên vị chua của khế, vị béo của thịt ba chỉ, vị bùi của trám, cá nướng giòn tan quyện với hương thơm của lá rừng.
Những nguyên liệu quen thuộc được kết hợp khéo léo tạo nên đặc sản nham trám Vân Xuyên quyến rũ thực khách. Nếu có dịp ghé qua Bắc Giang, chị em nhớ thưởng thức món ngon nức tiếng này nhé !!!
Loại quả xưa chín rụng đầy không ai nhặt, giờ được chị em nội trợ ưa chuộng đến lạ, 50.000 đồng/kg
Quả bồ hòn sau khi thu hái về, người dân quê chị Giang có thể để nguyên cả hạt rồi phơi khô dùng hoặc có thể tách bỏ vỏ, chỉ lấy phần thịt rồi xâu thịt vào một que tre.
Bồ hòn là cây thân gỗ, to, chiều cao trung bình từ 5 - 10m. Cây cao nhất có thể đạt tới 20 - 30m. Chúng là loài thực vật kén đất, chịu được hạn, không chịu được úng, thường được trồng ở ven đường.
Bồ hòn thường rụng lá vào mùa khô, lá mọc so le, dạng kép lông chim. Mỗi lá gồm có khoảng 4 - 6 đôi lá chét mọc đối xứng. Phiến lá có gân nổi rõ ở cả hai mặt, mép nguyên, đầu nhọn và gốc hơi lệch.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùm hoặc chùy gồm rất nhiều hoa nhỏ, màu lục nhạt. Đài 5 răng có ít lông. Tràng 5 cánh hình trứng có vảy ngắn ở gốc, có lông. Nhị 8, cong, dài hơn tràng. Bầu hình trứng nhẵn, có 3 ô.
Quả thuộc loại quả hạch, hình cầu, vỏ ngoài dày, có màu vàng nâu khi chín, sần sùi. Bên trong có chứa một hạt màu đen, bóng, hình cầu. Thịt quả khá dày, khi chín mềm lại khiến cho cả vỏ và thịt quả đều bị tóp lại, nhăn nheo, vị đắng.
Quả thuộc loại quả hạch, hình cầu, vỏ ngoài dày, có màu vàng nâu khi chín, sần sùi.
Cây bồ hòn phân bố rải rác ở những vùng á nhiệt đới và nhiệt đới như Ấn Độ, Malaysia và Srilanca. Tại Việt Nam, loài thực vật này mọc nhiều ở những vùng núi trung du như Tuyên Giang, Bắc Giang, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Nghệ An, Yên Bái, Phú Thọ,...
Bộ phận dùng chủ yếu của bồ hòn là phần rễ và quả của nó. Thường thì phần quả sẽ được sử dụng nhiều hơn và được ứng dụng rộng rãi không chỉ trong đời sống mà còn cả trong công nghiệp sản xuất chất tẩy rửa.
Chị Giang Nguyễn (29 tuổi, Bắc Giang) cho biết: "Xưa quê tôi trồng nhiều bồ hòn lắm, chủ yếu phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng. Do đó có đợt quả bồ hòn chín rụng đầy vườn mà chẳng có ai nhặt hay hái về để sử dụng. Sau này giới trẻ rộ phong trào sử dụng các loại nước rửa thiên nhiên thì bồ hòn bỗng dưng được ưa chuộng đến lạ".
Quả bồ hòn được sử dụng nhiều và ứng dụng rộng rãi không chỉ trong đời sống mà còn cả trong công nghiệp sản xuất chất tẩy rửa.
Qủa bồ hòn sau khi thu hái về, người dân quê chị Giang có thể để nguyên cả hạt rồi phơi khô dùng hoặc có thể tách bỏ vỏ, chỉ lấy phần thịt rồi xâu thịt vào một que tre. Sau đó họ đem phơi hoặc sấy khô, bảo quản dùng dần. Ngoài ra, phần hạt của quả sau khi phơi khô cũng được ứng dụng nhiều trong làm thuốc.
"Saponin trong thịt quả bồ hòn có đặc tính tạo bọt, kháng khuẩn, không độc hại và thân thiện với môi trường. Vì vậy, nước bồ hòn đã được sử dụng để giặt giũ, tắm gội, dùng như chất tẩy trắng, đánh bóng đồ trang sức hoặc dùng để chống sâu bọ, côn trùng... Đặc biệt, nó có hiệu quả rất tốt trong trường hợp giặt đồ len, lụa vì các đồ này thường không chịu được độ kiềm của xà phòng", người phụ nữ Bắc Giang nói.
Có nhiều cách để làm nước bồ hòn nhưng đơn giản nhất là ngâm thịt quả bồ hòn khô, khoảng 10 quả cho 1 lít nước, sau đó đun sôi và ninh nhỏ lửa, tiếp đến để qua đêm rồi lọc lấy nước bồ hòn sử dụng. Bên cạnh đó, người ta còn có thể nghiền bồ hòn thành bột hoặc ủ enzyme để tiện cho việc sử dụng và bảo quản.
Hiện quả bồ hòn được rao bán rất nhiều trên các trang thương mại điện tử với giá phải chằng từ 40.000 - 50.000 đồng/kg.
Có nhiều cách để làm nước bồ hòn nhưng đơn giản nhất là ngâm thịt quả bồ hòn khô.
Theo y học dân gian, người dân thường dùng vỏ quả bồ hòn trộn với mật ong rồi làm thành viên hoàn để hỗ trợ điều trị viêm phổi. Ngoài ra, quả bồ hòn còn có thể hỗ trợ điều trị các vấn đề da liễu. Người ta thường lấy vỏ quả bồ hòn tán nhỏ thành bột nhão rồi bôi lên các vết côn trùng đốt, trị ghẻ, lở, nấm da. Gội đầu bằng nước bồ hòn cũng giúp giảm gàu và nấm tóc.
Lạc ở ga tàu, đứa trẻ 4 tuổi tha hương, 40 năm sau đoàn tụ nghe chuyện nhói lòng về mẹ Lỡ rời khỏi vòng tay mẹ vài phút, đứa trẻ 4 tuổi đã có một cuộc đời hoàn toàn khác. Đứa trẻ 4 tuổi lạc mẹ ở ga tàu Vào một buổi tối trong khoảng năm 1979 - 1980, anh Nguyễn Văn Sáng nhớ lại khi đó mình độ 4 tuổi, cùng mẹ và một người em tên Hường đi tàu về quê...