Để Việt Nam là điểm đến lý tưởng của dòng FDI
Dù bị ảnh hưởng tiêu cưc bởi dịch COVID-19 bùng phát và lan rông tư đâu năm 2020 đên nay, nhưng với lợi thế chính trị ổn định, thủ tục hành chính thông thoáng,… Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn của dòng vôn đâu tư trưc tiêp nươc ngoài (FDI).
Đây là những nhận định của các doanh nghiệp FDI trong báo cáo kết quả điều tra Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2020 (PCI 2020) vừa công bô mơi đây.
Ảnh minh họa (Ảnh: M.P)
Trong bối cảnh năm 2020, khi cả thế giới đang đối mặt với dịch COVID-19 cùng căng thẳng trong quan hệ Mỹ – Trung, một làn sóng dịch chuyển của các doanh nghiệp (DN), nhà máy sản xuất ra khỏi Trung Quốc vừa để đối phó dịch vừa để giảm sự ảnh hưởng bởi quan hệ Mỹ – Trung. Các chuyên gia quốc tế và trong nước có chung nhận định là làn sóng FDI dịch chuyển khỏi Trung Quốc và có thể vào Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia hay các quốc gia khác. Và, Việt Nam được coi là có cơ hội lớn nhất khi có những lợi thế về địa lý, thể chế và cả công tác phòng, chống dịch COVID-19. Đặc biệt, việc thưc hiện hiệu quả chiến lược thu hút FDI theo Nghị quyết số 50-NQ/TW của Trung ương, từ đó tiếp nhận đầu tư có chọn lọc, mục tiêu là nâng cao chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào phát triển của đất nước Việt Nam.
Minh chưng rõ nét nhât là kêt quả của cuộc điều tra PCI 2020 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức thưc hiện và công bố mơi đây; bên cạnh hơn 10.700 doanh nghiệp tư nhân còn có 1.600 doanh nghiệp FDI được tham vân ý kiên. Kết quả điều tra PCI 2020 cho thấy, các doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục coi Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn với lợi thế chính trị ổn định, thủ tục hành chính dần thông thoáng, thanh kiểm tra và chi phí không chính thức đã giảm bớt.
Điều này chứng tỏ những thành công trong chiến lược của Việt Nam trong việc phát triển kinh tế trên cơ sở thu hút FDI và phát triển khu vực tư nhân trong nước. Chính trị ôn định của Viẹt Nam luôn có sưc hút vơi các nhà đâu tư nươc ngoài. Yêu tô này của Viẹt Nam liên tục đươc các doanh nghiẹp FDI đánh giá cao, vơi tỷ lẹ trên 90%. Việt Nam có rủi ro bị thu hôi mạt băng sản xuât kinh doanh và rủi ro bât ôn chính sách thâp hơn, sau nhưng bươc tiên ân tương trong các năm qua. Thưc tê, tỷ lẹ doanh nghiẹp FDI nhạn định, rủi ro bị thu hôi mạt băng là thâp tại Viẹt Nam đã tăng tư 64% lên 80%. Tỷ lẹ doanh nghiẹp FDI cho răng Viẹt Nam có rủi ro bât ôn chính sách thâp hơn cũng tăng tư 60% năm 2013 lên 82% năm 2020.
Dù đã có mọt sô bươc tiên song hai yêu tô thuê và vai trò của doanh nghiẹp trong hoạch định chính sách vân còn là điêm yêu của môi trương kinh doanh tại Viẹt Nam. Tỷ lẹ doanh nghiẹp FDI lưa chọn đâu tư vào Viẹt Nam do các yêu tô này dao đọng xung quanh mưc 60% vào năm 2020. Các con số này phù hợp với nhận định trước đó của Phòng Thương mại Hàn Quốc tại Việt Nam (KORCHAM) rằng cơ sở hạ tầng và hệ thống quy định là hai lĩnh vực Việt Nam cần cải thiện hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư mới. KORCHAM cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện đơn giản hoá các thủ tục về điều kiện kinh doanh, tránh tình trạng có thể có cán bộ thi hành trực tiếp gây nhũng nhiễu cho DN.
Chủ tịch VCCI Vũ Tiên Lộc cho răng, kết quả PCI trong những năm qua cũng cho thấy một số xu hướng quan trọng rất đáng lưu ý trong chất lượng điều hành kinh tế tại các địa phương theo thời gian. Trong vòng 5 năm trở lại đây, doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng đánh giá tích cực hơn về sự năng động, tinh thần tiên phong và sự cầu thị của chính quyền. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng đặt niềm tin lớn hơn vào các thiết chế pháp lý và tình hình an ninh trật tự tại các địa phương. Thưc tê, bức tranh cải cách thê chê tại Việt Nam đã có nhiều sắc mầu tươi sáng hơn.
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, báo cáo PCI 2020 cũng chỉ ra một số vấn đề mà các DN còn quan ngại. Đó là hệ thống thủ tục, quy định, cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ công nếu so các quôc gia khác trong khu vực như: Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Malaysia…, chỉ có khoảng 42% doanh nghiệp FDI nhận định chất lượng cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam tốt hơn các nước kể trên trong khu vực.
Video đang HOT
Dươi 50% doanh nghiẹp FDI đánh giá tích cưc bôn yêu tô: Kiêm soát tham nhũng; chât lương cung câp dịch vụ công; hẹ thông thủ tục, quy định; và cơ sơ hạ tâng của môi trương kinh doanh Viẹt Nam. Trong đó, hai yêu tô đâu đươc đánh giá là có sư cải thiẹn đáng khích lẹ.
Có gân 40% doanh nghiẹp FDI coi chông tham nhũng là mọt trong nhưng điêm mạnh của Viẹt Nam trong năm 2020, tăng tư mưc xâp xỉ 30% năm 2014. Đánh giá của doanh nghiẹp FDI vê lĩnh vưc chât lương cung câp dịch vụ công đã cải thiẹn đáng kê, tăng tư mưc báo đọng 29% năm 2014 lên gân 46% năm 2020. Mạt khác, hai lĩnh vưc hẹ thông thủ tục, quy định và cơ sơ hạ tâng chưa có sư cải thiẹn đáng kê trong các năm gân đây.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Kêt quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp FDI kỳ vọng Việt Nam đẩy mạnh đơn giản hóa quy trình thành lập doanh nghiệp, số hóa và đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Cần thực hiện hiệu quả các cải cách nhằm hoàn thiện các khâu, các bước còn nhiều bất cập trong các thủ tục hành chính về thuế và bảo hiểm xã hội, từ đó nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh quốc gia và lợi thế so sánh với các nước trong khu vực. Nhìn chung, các nhà đầu tư từ nước ngoài cũng đặt kỳ vọng, Việt Nam tiếp tục kiểm soát tham nhũng, cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công, hoàn thiện thủ tục, nâng cấp mạnh mẽ chất lượng cơ sở hạ tầng.
Cho rằng, giá trị và sản phẩm quan trọng nhất của PCI không phải là bảng xếp hạng thứ bậc của các địa phương mà chính là những bài học kinh nghiệm, những mô hình và công nghệ cải cách được lan tỏa và chia sẻ, ông Daniel J. Kritenbrink, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nêu rõ, những năm qua, các loại phí không chính thức tiếp tục giảm. Đây là kết quả to lớn đạt được từ cuộc chiến chống tham nhũng. Đồng thời, Việt Nam đã đạt được những thành tích tích cực nhờ cải thiện về thủ tục hành chính, điển hình như thủ tục về hải quan. Ngoài ra, thành công trong công cuộc chống dịch COVID-19 đã gia tăng lòng tin và tác động tích cực đến các doanh nghiệp. Thưc tê minh chưng, chỉ số PCI 16 năm qua có vai trò quan trọng thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong công tác điều hành kinh tế cấp tỉnh tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, qua đó thúc đẩy năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ góc nhìn quốc tế, theo nhiều chuyên gia kinh tế, hiện nay, uy tín và vị thế của Việt Nam đang được đánh giá rất cao qua những thành công đạt được trong công tác phòng, chống dịch COVID-19. Đây là cơ hội để thế giới biết tới Việt Nam với lợi thế đặc biệt về “Sự tin cậy chiến lược”, là điểm đến đầu tư an toàn và sẵn sàng đón nhận các dòng vốn FDI chuyển dịch tới Việt Nam. Lợi thế này có thể tạo đà cho Việt Nam đi trước một bước để phục hồi nền kinh tế, thiết lập vị thế mới trên trường quốc tế.
Vơi nhưng kêt quả có đươc, việc triên khai có hiệu quả Nghị quyết số 50-NQ/TW – một nghị quyêt được xem là chính sách đột phá trong thu hút FDI, Việt Nam đang hương đên mục tiêu thu hút các dư án FDI công nghệ cao, xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển và đổi mới sáng tạo quy mô lớn. Và, Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến lý tưởng của dòng FDI.
"Đánh thức" tiềm năng kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển, lại được sự quan tâm "đặc biệt" của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên cho đến nay Trung du và miền núi phía Bắc vẫn là vùng khó khăn nhất của cả nước.
Đó là thông tin được đưa ra tại Diễn đàn Đầu tư phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc do Ban Kinh tế Trung ương; UBND tỉnh Phú Thọ và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức chiều nay (20/4).
Nhiều tiềm năng...
Phát biểu tại Diễn đàn, PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn - Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương - cho biết: Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích khoảng 100.965 km 2 , chiếm 28,6% diện tích cả nước với tổng dân số 13.853.190 người, trong đó có khoảng 30 dân tộc đang sinh sống.
Các đại biểu tham dự Diễn đàn
Đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển bền vững như: Nằm trên hành lang kinh tế Bắc - Nam, thuộc hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), là một trong những cửa ngõ thông ra biển và kết nối với ASEAN của các tỉnh miền Tây Trung Quốc. Đặc biệt, đây là vùng được Đảng và Nhà nước quan tâm, dành những chính sách ưu tiên đầu tư phát triển những năm qua.
Cụ thể, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX ngày 1/7/2004 về "Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010" và Kết luận số 26-KL/TW ngày 2/8/2012 về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ-TW, ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010" đã mở đường cho việc ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù, nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút và phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng.
Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ-TW, bộ mặt của vùng đã có nhiều thay đổi, kinh tế-xã hội có bước phát triển mới, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Quy mô kinh tế được mở rộng, năm 2018 GRDP của vùng gấp 11,2 lần so với năm 2004, chiếm khoảng 9,73% GDP cả nước. Trong giai đoạn 2004-2018 kinh tế các tỉnh trong vùng tăng trưởng liên tục và tương đối nhanh, đạt mức gần 10%, cao hơn trung bình toàn quốc trong cùng giai đoạn.
Toàn cảnh Diễn đàn
Đặc biệt, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những năm gần đây, một số địa phương trong vùng có quy mô GRDP cao như Thái Nguyên 125,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng GRDP toàn vùng; Bắc Giang 121,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,6%, do đây là địa phương thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua...
TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI - thông tin: Rất nhiều địa phương trong Vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời gian qua đã có sự cải thiện tích cực hơn trong thu hút đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Điển hình trong số đó phải kể đến Tuyên Quang - đây là điểm sáng trong phong trào Cà phê Doanh nhân của phía Bắc, hay như Lào Cai cũng là một địa phương đi đầu trong thực hiện sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp.
...chưa được đánh thức
Dù đã đạt được những tín hiệu tích cực trong phát triển kinh tế-xã hội, nhưng các đại biểu vẫn cho rằng, phát triển của Vùng Trung du miền núi phía Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, rất nhiều tiềm năng, lợi thế của vùng chưa được khai thác triệt để, chưa tạo động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội trong vùng phát triển.
PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn - Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương - nhận định: "Đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp và khoảng cách về thu nhập so với cả nước đang có xu hướng doãng ra. Tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (2018), trng đó tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở mức cao. Nhiều chỉ số về văn hóa, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc..."
Cùng với đó, nhiều ý kiến cho rằng phát triển của các địa phương trong Vùng Trung du và miền núi phía Bắc không đồng đều, các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong vùng thấp nhất trong cả nước, trong đó đa phần là doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ. Quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn chưa mang tính vùng, chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế-xã hội, đang tạo sức ép lớn đối với môi trường. Tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công nghiệp thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng thô và gia công. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân chưa nhiều. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là kết nối hạ tầng giao thông, năng lực cạnh tranh của vùng chậm được cải thiện.
Các diễn giả tham gia phiên thảo luận
Hoàn thiện hạ tầng và đẩy mạnh liên kết vùng
Mặc dù có rất nhiều lợi thế để phát triển, song nhiều ý kiến đưa ra tại Diễn đàn đều cho rằng, hạ tầng kinh tế-xã hội, hạ tầng giao thông của Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn kém phát triển và đây là một trong những "nút thắt" làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế và thu hút đầu tư của địa phương.
Liên quan đến nội dung này, ông Nguyễn Hồng Long - Phó trưởng Ban chuyên trách Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương - đánh giá: Đây là khu vực có địa hình phức tạp, bị chia cắt do có rất nhiều núi cao. Cơ sở hạ tầng còn hạn chế, mới có 2 tuyến cao tốc từ Hà Nội đi Lào Cai và Lạng Sơn, có 2 sân bay thì sân bay Vân Đồn mới đi vào hoạt động, còn sân bay Điện Biên Phủ chỉ có máy bay hạng nhẹ hạ cánh được, nếu so với vùng Tây Nguyên diện tích chỉ bằng và dân số chưa bằng mà có tới 3 sân bay... khiến việc đi lại trong vùng càng khó khăn.
Để khắc phục vấn đề hạ tầng, ông Nguyễn Văn Sơn - Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang - kiến nghị: Chính phủ và các bộ, ngành trung ương ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống mạng lưới giao thông kết nối các tỉnh trong vùng theo hướng hiện đại, đồng bộ, nhằm rút ngắn thời gian di chuyển, vận chuyển hàng hóa, hành khách. Đồng thời, các địa phương trong vùng cũng cần chủ động hợp tác, phối hợp, hỗ trợ nhau trong việc đầu tư cải tạo, nâng cấp và mở các tuyến giao thông kết nối, nhằm thu hút đầu tư phát triển. Trong đó, quan tâm hỗ trợ tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ đầu tư hoàn thành đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; bổ sung quy hoạch và đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, kết nối với Cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, Hà Giang...
Bên cạnh chú trọng hoàn thiện hạ tầng giao thông, một số ý kiến tại Diễn đàn cũng nhận định, các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh liên kết nhằm phát triển kinh tế. Trong đó, liên kết ở đây không giới hạn ở một lĩnh vực mà cần được đẩy mạnh ở nhiều lĩnh vực và cần được triển khai đồng bộ ở tất cả các địa phương, có vậy mới tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
Trong đó, về lĩnh vực du lịch, bà Nguyễn Thị Thanh Hương - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch - cho rằng: Các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh liên kết trong phát triển sản phẩm, công tác quảng bá xúc tiến du lịch, liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật...
"Liên kết là một yêu cầu khách quan, là xu thế tất yếu, là trải nghiệm mà các vùng, miền đã đúc kết từ thực tiễn nhiều năm trước" - Bà Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển thị trường dịch vụ logistics Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương - Trần Quốc Khánh, để đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp logistics trong nước cần hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh về số lượng, quy mô, trình độ nhân lực, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh Ngày 20/4, tại Hà...