Đề phòng những nguy cơ hiếm gặp do truyền máu
Trong trường hợp mất máu nghiêm trọng, truyền máu có thể cần thiết để giúp phục hồi sức khỏe. Mặc dù hiếm xảy ra, tuy nhiên một số phản ứng có thể xảy ra trong quá trình truyền máu.
Trong quá trình truyền máu, các thành phần thông thường nhất của máu được truyền là huyết tương, tiểu cầu hoặc hồng cầu. Điều rất quan trọng và bắt buộc là phải có sự phù hợp loại máu của người hiến và người nhận truyền máu, vì phản ứng truyền máu có thể xảy ra trong quá trình truyền máu. Mặc dù hiếm xảy ra, nhưng những phản ứng này có thể dẫn đến các tác hại trên nhiều cơ quan quan trọng của cơ thể và có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Các nguy cơ chính của truyền máu
Phản ứng sốt
Người bệnh phát sốt một cách bất ngờ trong vòng 24 giờ hoặc trong khi truyền máu. Sốt có thể kèm các triệu chứng đau đầu, ớn lạnh, buồn nôn hoặc cảm giác khó chịu. Phản ứng sốt thường là do đáp ứng của cơ thể đối với các bạch cầu có trong máu hiến. Những phản ứng này phổ biến hơn ở những người đã từng được truyền máu trước đây hoặc ở những phụ nữ có thai nhiều lần.
Các tổn thương phổi cấp tính
Mặc dù tổn thương phổi cấp tính do truyền máu hiếm khi xảy ra, nhưng đó là một trong những nguy cơ truyền máu nghiêm trọng.
Phản ứng này thường bắt đầu trong vòng 1-2 giờ sau khi truyền, nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau 6 giờ truyền máu. Triệu chứng chính là khó thở có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Do đó, nếu nghi ngờ bệnh nhân có tổn thương phổi cấp tính do truyền máu trong quá trình truyền máu, nên ngừng truyền máu và can thiệp cấp cứu ngay.
Truyền máu có thể xảy ra các phản ứng bất lợi dù hiếm gặp.
Phản ứng tan máu miễn dịch cấp tính
Video đang HOT
Mặc dù rất hiếm gặp, đây cũng là một trong những nguy cơ nghiêm trọng. Phản ứng xảy ra khi máu của người hiến và người nhận không phù hợp. Các tế bào hồng cầu của máu được truyền sẽ bị tấn công bởi các kháng thể trong máu của người nhận làm hồng cầu vỡ ra và giải phóng các sản phẩm độc hại vào máu của người nhận máu.
Các triệu chứng thông thường của phản ứng này là sốt, ớn lạnh, buồn nôn, đau ngực và đau thắt lưng. Thận có thể bị hư hại nặng và cần chạy thận nhân tạo cấp cứu. Tử vong có thể xảy ra do phản ứng tan máu nếu không ngừng truyền máu ngay lập tức.
Phản ứng tan máu miễn dịch chậm
Trong loại phản ứng này, cơ thể bệnh nhân tấn công các kháng nguyên, trừ các kháng nguyên ABO, có mặt trên các tế bào máu truyền vào, những tế bào này bị tiêu hủy vài ngày hoặc thậm chí vài tuần sau khi truyền máu.
Thông thường không có triệu chứng, nhưng nó có thể phá hủy các tế bào hồng cầu trong máu truyền và dẫn đến sự giảm số lượng hồng cầu ở bệnh nhân. Hiếm khi, thận có thể bị ảnh hưởng và có thể cần điều trị. Loại phản ứng này thường xảy ra ở những người đã từng truyền máu trong quá khứ. Trong trường hợp này, truyền máu không được chứa kháng nguyên mà đã bị tấn công bởi cơ thể.
Phản ứng mảnh ghép chống lại vật chủ
Loại phản ứng này xảy ra trong quá trình truyền máu ở bệnh nhân có hệ miễn dịch rất yếu. Các tế bào bạch cầu có trong máu truyền sẽ tấn công các tế bào của bệnh nhân. Phản ứng này phổ biến hơn khi truyền máu được lấy từ người họ hàng hoặc người có cùng kiểu tổ chức mô như bệnh nhân.
Nếu các bạch cầu trong máu được truyền không bị hệ thống miễn dịch của người bệnh nhận ra, chúng sẽ sống sót và sau đó có thể tấn công các mô cơ thể của bệnh nhân. Các triệu chứng như rối loạn chức năng gan, sốt, nổi ban và đi phân lỏng có thể xảy ra trong một tháng truyền máu.
Một số vi trùng lây nhiễm như HIV có thể tồn tại trong máu được truyền máu và có thể lây nhiễm cho bệnh nhân đang được truyền máu. Vì sự an toàn của máu, máu hiến tặng bây giờ được kiểm tra cẩn thận bởi các ngân hàng máu. Nguy cơ lây nhiễm virus trong khi truyền máu là rất thấp.
Nguy cơ lây nhiễm HIV chỉ khoảng 1/2 triệu người truyền máu, đối với bệnh viêm gan B chỉ khoảng 1 trên 205.000 người và đối với viêm gan C là 1/2 triệu người. Máu có thể bị nhiễm bẩn bởi một lượng nhỏ vi khuẩn trên da trong khi hiến máu. Điều này có thể gây bệnh nặng ở bệnh nhân vài phút hoặc nhiều giờ sau khi bắt đầu truyền máu.
Phản ứng dị ứng
Phản ứng dị ứng cũng là một trong những nguy cơ truyền máu. Một số bệnh nhân có thể phát triển phản ứng dị ứng với máu truyền trong quá trình truyền máu. Phản ứng dị ứng có thể xảy ra ngay cả khi máu truyền loại máu đúng. Các triệu chứng có thể nặng hoặc nhẹ và bao gồm đau ngực, đau lưng, hồi hộp, khó thở, huyết áp thấp, nhịp nhanh, ớn lạnh, sốt, da ướt, đỏ bừng và buồn nôn. Việc truyền máu phải được dừng ngay lập tức nếu thấy phản ứng dị ứng.
Quá tải chất lỏng
Đôi khi, một lượng lớn máu được truyền trong một thời gian ngắn và cơ thể không thể chuyển tải kịp thời. Loại phản ứng này được gọi là quá tải chất lỏng. Nó xảy ra phổ biến hơn ở bệnh nhân cao tuổi, ở những người yếu ớt hoặc bị bệnh nặng (như bệnh tim) hoặc ở những bệnh nhân có trọng lượng cơ thể thấp. Hậu quả có thể dẫn tới suy tim hoặc khó thở…
Quá tải chất sắt
Một trong nguy cơ sau cùng của truyền máu là tình trạng quá tải sắt. Số lượng lớn chất sắt có thể tích tụ trong máu nếu bạn truyền máu quá nhiều. Bệnh nhân bị các chứng rối loạn về máu như Thalassemia hoặc những người cần nhiều lần truyền máu có nguy cơ bị quá tải sắt. Dẫn tới gan, tim và các bộ phận khác của cơ thể có thể bị tổn thương.
Ghép tủy cho bệnh nhân đột biến gien
Nếu mang trong mình căn bệnh hiếm có tên gọi là "Wiskott-Aldrich" - bệnh bẩm sinh do đột biến gien, bệnh nhân có thể tử vong bất cứ lúc nào, hầu hết không sống quá 15 tuổi
Đã có một số bệnh nhi được ghép tủy điều trị hội chứng Wiskott-Adlrich thành công. Bệnh viện Nhi trung ương đã nghiên cứu áp dụng phác đồ điều trị của Hiệp hội Ghép tủy châu Âu. Sau khi ghép, các chỉ số máu của trẻ như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trở về mức bình thường.
Không tìm ra nguyên nhân
Bệnh nhi T.V.T (ở Quảng Ninh) chào đời năm 2018. Một ngày sau sinh, cháu bị xuất hiện những nốt xuất huyết ở thành bụng, được chuyển đến Bệnh viện Nhi trung ương điều trị. Một tuần điều trị tại đây, các chỉ số xét nghiệm của cháu T. trong giới hạn bình thường nên được xuất viện.
Tháng 9-2019, khi tái khám lần 2, qua các xét nghiệm, bác sĩ nhận thấy tiểu cầu của cháu T. rất thấp kèm dấu hiệu xuất huyết ngoài da, đi ngoài ra máu. Nghi ngờ có thể mắc bệnh di truyền hiếm gặp, cháu T. được chỉ định xét nghiệm gien. Gia đình bất ngờ khi được bác sĩ thông báo con mình mắc căn bệnh hiếm Wiskott-Aldrich.
Vợ chồng chị N.T.D (ở Quảng Trị) có một con trai 7 tuổi (tên V.M). Cháu M. bị chàm rất nặng, đi ngoài ra máu, vợ chồng chị D. đã đưa cháu M. đi khắp các bệnh viện nhưng không tìm ra nguyên nhân. Tháng 4 vừa qua, cháu M. được chuyển tới Bệnh viện Nhi trung ương, tại đây cháu M. được chẩn đoán mắc hội chứng Wiskott-Aldrich.
BS Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê, Khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp Bệnh viện Nhi trung ương, cho biết Wiskott-Aldrich là bệnh hiếm, bẩm sinh do đột biến gien. Có đến 90% trẻ có biểu hiện giảm tiểu cầu (kèm kích thước tiểu cầu nhỏ) cùng các triệu chứng điển hình là chàm cơ địa, với trẻ sơ sinh là biểu hiện có nhiều "cứt trâu" trên đầu hoặc hay bị hăm tã.
Theo BS Quỳnh Lê, các nghiên cứu cho thấy nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhi mắc Wiskott-Aldrich sẽ không sống quá 15 tuổi. Tuy nhiên, thực tế trẻ mắc căn bệnh này thường tử vong ở độ tuổi sớm hơn. Những năm qua, bệnh viện tiếp nhận không ít bệnh nhân mắc Wiskott-Aldrich. Trong đó, chỉ có 2 trẻ sống được qua 7 tuổi, còn lại hầu hết đều tử vong trước 5 tuổi.
"Nguyên nhân tử vong do bệnh Wiskott-Aldrich gây ra là nhiễm khuẩn, xuất huyết não, xuất huyết tạng. Miễn dịch của người bệnh thường suy yếu nhanh chóng, các bé dần suy kiệt và tử vong vì các đợt nhiễm trùng do đáp ứng kém với thuốc" - BS Quỳnh Lê nói.
Bác sĩ thăm khám cho bệnh nhi mắc Wiskott-Aldrich sau khi được ghép tủy thành công (Ảnh: LÊ MAI)
Ghép tủy - con đường sống
TS-BS Lê Quỳnh Chi, Trưởng Khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp, Bệnh viện Nhi trung ương, cho biết trong số những bệnh nhi điều trị tại bệnh viện, trong đó bệnh nhi nhỏ tuổi nhất là 5 tháng, lớn nhất là 7 tuổi. Phần lớn những bệnh nhi này thường có rất nhiều biến chứng của bệnh như di chứng xuất huyết não, tình trạng viêm da cơ địa nặng, tổn thương mắt... và đều có chỉ định ghép tủy (ghép tế bào gốc). Đây là liệu pháp điều trị kỹ thuật cao, đưa tế bào gốc tạo máu vào cơ thể thay cho tế bào gốc bị tổn thương hoặc bất thường.
BS Chi cho biết đã có một số bệnh nhi được ghép tủy điều trị hội chứng Wiskott-Adlrich thành công. Mới nhất là bệnh nhi T.V.T (2 tuổi) ở Quảng Ninh được ghép tủy từ nguồn hiến là người chị. "Cuối tháng 2-2020, bệnh nhi được ghép tủy theo phác đồ điều trị của Hiệp hội Ghép tủy châu Âu. Trước ghép tủy, cháu phải trải qua 1 tuần điều trị hóa chất để diệt tủy. Nhờ quá trình trước khi ghép được chuẩn bị kỹ nên bệnh nhi không bị các tai biến sau ghép. Các biến chứng sau ghép như sốt giảm bạch cầu hạt, viêm niêm mạc... đều được phát hiện sớm và kiểm soát tốt. Ba tuần sau khi ghép, nguồn tủy mới đã phát triển đạt đến 87%. Gần 5 tuần sau đó, kết quả xét nghiệm tủy mới đạt 100%. Các chỉ số máu của bệnh nhi V.T như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đã trở về mức bình thường" - BS Chi chia sẻ.
PGS-TS Lê Thị Minh Hương - nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương, cho biết bệnh Wiskott-Aldrich thường biểu hiện rất sớm trong vòng 1-2 tháng đầu tiên sau sinh. Hội chứng này biểu hiện bằng tình trạng suy giảm chức năng các tế bào lympho T và B. Bệnh nhân thường rất nhạy cảm với các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng. Theo thời gian, chức năng của các tế bào lympho T và B ngày càng suy giảm nặng, khiến trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội với tần suất và mức độ ngày càng lớn. Hội chứng này còn làm giảm số lượng và chức năng của tiểu cầu - một yếu tố rất quan trọng trong quá trình đông máu của cơ thể. Từ đó trẻ có biểu hiện chảy máu ngoài da, niêm mạc, nặng hơn có thể đi ngoài ra máu, đi tiểu ra máu và nguy hiểm nhất là biến chứng xuất huyết não. Bên cạnh đó, trẻ còn có thể bị viêm da cơ địa, làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn qua làn da tổn thương.
Trường hợp được ghép tủy thành công, trẻ mắc bệnh này hoàn toàn khỏi bệnh và có cuộc sống bình thường như những trẻ khác. Tuy nhiên, khó khăn nhất với các gia đình có con mắc căn bệnh hiếm gặp Wiskott-Aldrich là chi phí điều trị rất cao. Hiện quỹ BHYT mới chi trả một phần cho các ca ghép tủy, trong khi số tiền thực hiện là hàng trăm triệu đồng, thậm chí có thể lên tới 1-2 tỉ đồng.
"Để điều trị bệnh Wiskott-Aldrich cần chi phí rất lớn. Mong muốn của gia đình người bệnh và của các bác sĩ điều trị là cơ quan bảo hiểm cùng các tổ chức xã hội sớm có chính sách hỗ trợ để giảm bớt gánh nặng về viện phí cho gia đình bệnh nhân" - BS Chi bày tỏ.
Phẫu thuật cứu phụ nữ gặp TNGT bị vỡ thận làm đôi Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ vừa phẩu thuật và cứu sống bệnh nhân nữ bị tai nạn giao thông khiến quả thận bị vỡ đôi. Các bác sĩ Khoa Ngoại Thận - Tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Trung ương (ĐKTƯ) Cần Thơ vừa phẫu thuật cấp cứu thành công bệnh nhân bị sốc mất máu do chấn thương vỡ...