Để phát hiện bệnh đái tháo đường
Biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều nhưng lại sút cân…
Ở người bệnh đái tháo đường không được điều trị kịp thời hoặc điều trị không đúng cách, sẽ dẫn tới hàng loạt biến chứng nguy hiểm như bệnh tim mạch, bệnh thận. bệnh võng mạc và hệ thống hệ thần kinh… Vậy làm thế nào để sớm phát hiện ra căn bệnh quái ác này? Như ta đã biết, nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh đái tháo đường (còn gọi là bệnh tiểu đường) là do có thể sản xuất không đủ insulin, ảnh hưởng tới sự chuyển hóa bình thường của đường trong máu (đường máu), làm cho mức độ đường màu tăng lên, nước tiểu bài tiết ra cũng chứa đường (đường nước tiểu).
Bởi vậy, biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều và sút cân (thể trọng giảm), tức cái gọi là chứng “3 nhiều 1 sút”. Nhưng sự thực chứng minh là có tới 1/3 tổng số người bệnh không xuất hiện các triệu chứng kể trên, thuộc người đái tháo đường không mang theo triệu chứng. Và bởi suốt thời gian dài bệnh nhân không hề biết mình đã mắc bệnh này, nên phần lớn đều xảy ra những biến chứng nghiêm trọng (như bệnh đục thủy tinh thể, thị lực giảm sút, viêm thần kinh, chức năng thận suy giảm, đau quặn tim, nhồi máu cơ tim, xuất huyết não, tắc mạch máu não…), khi chẩn đoán chữa trị các bệnh thứ phát này mới phát hiện ra mắc bệnh đái tháo đường, và tới lúc này thì đã quá muộn, chữa trị rất khó khăn, tiên lượng bệnh tật cũng kém!.
Biểu hiện điển hình của bệnh đái tháo đường là uống nhiều, ăn nhiều và sút cân
Kiểm tra hàm lượng đường trong nước tiểu là bước đầu tiên trong phát hiện bệnh đái tháo đường. Tuy dương tính với đường trong nước tiểu chưa đủ để kết luận mắc bệnh đái tháo đường, nhưng tuyệt đại đa số đường chứa trong nước tiểu đều là đường gluco (glucose; grape sugar; dextrse). Chỉ có rất ít người bệnh trong trường hợp thật đặc biệt thì trong nước tiểu mới xuất hiện các loại đường khác ngoài đường glucô. Bởi vậy bình thường vẫn có thể thông qua việc kiểm tra lượng đường trong nước tiểu để phát hiện bệnh đái tháo đường. Trong nước tiểu của người bình thường không có đường glucô, chỉ khi hàm lượng đường trong máu (đường máu) tăng cao, vượt quá ngưỡng đường bình thường thì trong máu mới xuất hiện đường glucô.
Video đang HOT
Với người bệnh đái tháo đường mà chức năng thận vẫn ở trạng thái bình thường, thì hàm lượng đường trong nước tiểu của người bệnh ít nhiều vẫn cân bằng với nồng độ đường trong máu. Bởi vậy, lúc này hàm lượng đường trong nước tiểu có thể phản ánh mức độ đường máu. Nhưng khi chức năng của thận bị tổn thương ở mức độ nhất định nào đó, thận không lọc được lượng đường thừa, cho dù đường máu tăng cao thì đường trong nước tiểu cũng không nhiều, thậm chí còn biểu hiện âm tính, lúc này chỉ có cách tiến hành xác định đường máu mới có thể giúp được chuẩn đoán.
Qua đó có thể thấy, có khi chỉ dựa vào việc kiểm tra lượng đường trong máu mới có thể chẩn đoán chính xác, kiểm đo đường máu là căn cứ quan trọng chẩn đoán bệnh đái tháo đường (bao gồm cả xác định lượng đường trong máu vào lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn).
Trị số đường máu lúc bụng rỗng ở người bình thường là 4,4 – 6,7mmol/l (80-120mg/dl), nếu qua nhiều lần kiểm tra kết quả vẫn vượt 7,8mmol/l (140mg/dl) mà không tìm ra lệnh gì thì có thể chẩn đoán ra bệnh đái tháo đường, nếu cộng với kết quả kiểm tra đường máu lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn đạt tới 11,2mmol/l (200mg/dl) trở lên, đường nước tiểu hơi có phần tương ứng dương tính (positive reaction) thì kết luận bệnh đái tháo đường có thể được đẳng định. Nếu đường máu của bệnh nhân khi bụng rỗng là 7,8mmol (140mg/dl) trở xuống, mà lâm sàng vẫn nghi ngờ là bệnh đái tháo đường thì cần phải cho bệnh nhân qua lần kiểm tra đặc biệt, gọi là thí nghiệm lượng đường trơ đường glucô (tức xác định lượng đường có thể chịu đựng được).
Phương pháp thường dùng là: Dặn người bệnh sau 7 giờ tối hôm trước ngày làm thí nghiệm nhịn ăn, sáng sớm hôm sau lấy mẫu máu tĩnh mạch để kiểm đo lượng đường máu lúc bụng rỗng, có thể theo phương án của WHO, sau đó cho người bệnh uống 300ml nước có pha 75g đường (glucose), hai giờ sau khi uống lấy mẫu máu để kiểm đo lượng đường máu, nếu lượng đường máu lúc bụng rỗng vượt quá 7,8mmol/l (140mg/dl) hoặc lượng đường máu lúc hai giờ đồng hồ sau bữa ăn vượt quá 11,2mmol/l (200g/dl) thì có thể chẩn đoán là đã mắc bệnh đái tháo đường. Nhưng với người thông qua kiểm đo đường nước tiểu, đường máu đã xác định mắc bệnh đái tháo đường rồi thì không cần làm thí nghiệm đặc biệt.
Theo VNE
Phòng và hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường hay tiểu đường là một bệnh mãn tính, được coi là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển, đứng hàng thứ ba chỉ sau bệnh tim và ung thư.
Tại Việt Nam, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trong 10 năm qua có xu hướng gia tăng. Một nghiên cứu của bệnh viện Nội Tiết Trung Ương vào năm 2008 cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở Việt Nam tăng nhanh từ 2,7% (năm 2001) lên 5% (năm 2008), trong đó có tới 65% người bị bệnh không biết mình đang mắc bệnh, đến khi phát hiện bệnh thì chi phí điều trị cũng khá cao, vì đái tháo đường phải điều trị suốt đời.
Cách tốt nhất để phát hiện bệnh đái tháo đường là thường xuyên kiểm tra lượng đường trong máu. Với người bình thường, chỉ số đường huyết lúc đói có giá trị từ 4 - 6 mmol/l. Sau khi ăn từ 1 - 2 giờ, chỉ số này dao động trong khoảng 5 - 7 mmol/l. Với người bệnh tiểu đường (bệnh đái tháo đường), chỉ số đường huyết sẽ vượt qua các giá trị trên.
Bệnh đái tháo đường khi mắc phải sẽ gây ra những biến chứng rất nghiêm trọng như: các bệnh về tim mạch, giảm thị lực dẫn đến mù mắt, viêm nhiễm chân tay, tăng nguy cơ ung thư... Các biến chứng của bệnh thường bắt đầu âm thầm, đến lúc có triệu chứng thì đã quá muộn. Do đó, việc phòng ngừa các biến chứng phải áp dụng ngay sau lần khám bệnh đầu tiên, bạn nên chú ý điều chỉnh lại chế độ ăn uống và vận động như: giảm cân, ăn ít chất béo, nhiều chất xơ từ rau quả, tập thể dục thể thao...
Có một thực phẩm từ tự nhiên rất lý tưởng cho người mắc bệnh đái tháo đường với hơn một trăm các chất dinh dưỡng với năng lượng thấp đồng thời không chứa tinh bột, đường và chất béo, đó là Tảo Mặt trời Spirulina - một loại thực vật đã tồn tại trên trái đất từ 3.6 tỷ năm trước. Với sự có mặt của những khoáng chất tự nhiên trong Tảo Mặt trời như: Magie, selen, sắt, canxi... đặc biệt là Kẽm - loại khoáng chất người tiểu đường cực kỳ thiếu do chế độ ăn kiêng khắt khe, người bị đái tháo đường có thể hạn chế biến chứng không mong muốn do thiếu khoáng chất, đặc biệt là hiện tượng giảm sinh lý ở nam giới.
Tảo Mặt trời Tự Nhiên và Tảo Mặt trời Gold Plus
Đồng thời, Tảo Mặt trời còn cung cấp một lượng lớn các chất chống oxi hóa như: phycocyanin, chlorophyll... giúp thanh lọc thải độc cho cơ thể, tăng cường sức đề kháng cho người bị đái tháo đường dễ bị suy giảm miễn dịch do chế độ ăn kiêng thiếu chất và lượng đường trong máu cao. Acid GLA (omega 6) và vitamin K, đốt lượng mỡ thừa giúp cho cơ thể người bị tiểu đường hạn chế biến chứng về tim mạch đặc biệt là xơ vữa động mạch.
Thêm vào đó, với hàm lượng vitamin A và Zeaxanthin cao, cung cấp đầy đủ cho người bệnh, giúp sáng mắt, hạn chế các biến chứng về mắt mà người bị đái tháo đường dễ mắc phải. Phenylalanin và hoạt chất sinh học trong Tảo Mặt trời tác dụng lên trung tâm thèm ăn ở não bộ làm giảm các cơn đói dày vò đồng thời nó giữ cho lượng đường trong máu ở mức bình thường. Tảo Mặt trời là một loại thực vật tự nhiên như rau xanh nên hoàn toàn không chứa chất béo, tinh bột là một món ăn phù hợp nên được bổ sung vào chế độ ăn kiêng, giảm cảm giác đói cho người bệnh, kiểm soát lượng đường trong máu của người có nguy cơ bị đái tháo đường cao.
Lợi ích của các chất dinh dưỡng trong Tảo Mặt trời cho người bệnh đái tháo đường:
Để sử dụng Tảo Mặt trời để hỗ trợ bệnh đái tháo đường, người bệnh cần uống bổ sung 6 viên Tảo Mặt trời Gold Plus vào buổi sáng, 6 viên Tảo Mặt trời tự nhiên vào buổi trưa và buổi tối trong 2 tháng đầu tiên. Sau đó nên dùng liều duy trì từ 6 - 12 viên Tảo Mặt trời Gold Plus hoặc Tảo Mặt trời tự nhiên để ổn định đường huyết, hỗ trợ cho hệ miễn dịch, hạn chế các biến chứng của bệnh, tạo nền tảng cho một sức khỏe bền vững.
Theo VNE
10 dấu hiệu nguy hiểm, không thể xem thường của bệnh tiểu đường Tiểu đường là một căn bệnh nghiêm trọng, việc nhận ra các dấu hiệu của bệnh càng sớm càng tốt là rất quan trọng để giảm thiểu tối đa các biến chứng nguy hiểm và phức tạp. Tiểu đường là một căn bệnh có thể từ từ đến gần xuất hiện mà không hề có một sự cảnh báo trước nào. Tuy nhiên,...