ĐBQH Nguyễn Thị Mai Hoa: Đầu tư cho giáo dục phải tương xứng để tạo ra thế hệ trẻ bản lĩnh, trí tuệ
ĐBQH Nguyễn Thị Mai Hoa, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng, đầu tư cho giáo dục và văn hóa phải có sự tương xứng để tạo nên những thế hệ người Việt trẻ có trí tuệ, bản lĩnh, khát khao cống hiến để hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
ĐBQH Nguyễn Thị Mai Hoa nhận định, đầu tư cho giáo dục và văn hóa phải tương xứng để tạo nên những thế hệ người Việt trẻ có trí tuệ, bản lĩnh, khát khao cống hiến. (Nguồn: TTBC Quốc hội)
Một trong những điểm mới của văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là đặt ra vấn đề “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Bà suy nghĩ gì về điểm mới này?
Tôi rất ấn tượng đối với nội dung “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Điều này có ý nghĩa rất lớn vì Đại hội XIII không chỉ xác định mục tiêu định hướng 5 năm, 10 năm, mà còn đưa ra tầm định hướng đến năm 2045 với những mục tiêu gắn với hai dấu mốc quan trọng: 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và 100 năm thành lập nước vào năm 2045.
Trước hết, ý nghĩa của việc đưa nội dung khát vọng vào văn kiện Đại hội Đảng thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu hạnh phúc cho người dân và khát vọng phát triển đất nước theo lộ trình cụ thể: Đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Bên cạnh đó, ý nghĩa còn nằm ở tính nhân văn, vì mục tiêu xuyên suốt trong đường lối của Đảng ta chính là phụng sự nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thực tế cho thấy, trong các nghị quyết của Đảng, nhân dân luôn được đặt ở vị trí chủ thể; nhưng đến Đại hội XIII, vai trò của nhân dân được xem xét một cách hài hoà ở cả hai phương diện: “dân giám sát và dân thụ hưởng”. Đây sẽ là động lực để người dân phát huy cao độ tinh thần cống hiến hết mình vì đất nước phồn vinh.
Tất cả những ý nghĩa ấy đòi hỏi mục tiêu “hạnh phúc của người dân” cần được đo lường bằng những tiêu chí về giá trị vật chất và tinh thần. Chẳng hạn, bên cạnh tiêu chí thu nhập cần có các tiêu chí về mức độ hài lòng, môi trường sống, chính sách an sinh, phúc lợi xã hội… Hạnh phúc của người dân phải trở thành chỉ số đo lường chất lượng cuộc sống của con người và sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo bà, để hiện thực hoá khát vọng “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, yếu tố văn hoá, yếu tố con người có vai trò gì?
Video đang HOT
Tôi cho rằng, giá trị văn hoá nằm ngay ở nội hàm “khát vọng”. Đối với mỗi người, khát vọng chính là động lực để cống hiến; đối với một quốc gia, khát vọng chính là động lực để phát triển. Một khi khát vọng của mỗi cá nhân được khơi dậy sẽ tạo được sự cộng hưởng, làm nên sức mạnh của cả cộng đồng, cả dân tộc. Đó là vấn đề của văn hoá, là sức mạnh được kết tinh bởi giá trị, tiềm năng, thế mạnh của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Cùng với văn hoá, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc chịu sự chi phối của nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực thực tế, hội đủ ba yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực. Con người có trí tuệ, có hoài bão, có khát vọng chính là chủ nhân tạo ra giá trị mới cho xã hội, hình thành sức bật mới cho đất nước, góp phần xây dựng một Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc trong tương lai gần.
Như vậy, với tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần phải nhận thức một cách đầy đủ tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa, của nguồn lực con người trong sự phát triển của đất nước, nhất là trong thời đại 4.0 này.
Vậy làm sao để có được nguồn nhân lực trẻ Việt Nam, từng bước hiện thực hoá khát vọng?
Việc hiện thực hoá mục tiêu này không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, hội tụ trí lực, thể lực và tâm lực, có ý chí và khát vọng. Mà nguồn nhân lực này chính là sản phẩm của giáo dục đào tạo, cũng như kết tinh của văn hóa Việt Nam.
Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có lý tưởng sống, có ý thức trách nhiệm, vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, vừa có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, thể hiện qua phẩm chất năng lực của công dân toàn cầu.
Nguồn nhân lực chất lượng phải bao gồm cả thể lực, trí lực và tâm lực. Theo đó, đầu tư cho giáo dục và văn hóa nhất định phải có sự tương xứng để tạo nên những thế hệ người Việt trẻ có trí tuệ, bản lĩnh và khát khao cống hiến để hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc như mục tiêu chúng ta đang hướng tới.
Bà từng đề nghị Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổ tư vấn văn hóa giáo dục. Ý tưởng này đến từ đâu, thưa bà?
Thực ra, ý kiến ấy chủ yếu xuất phát từ mong muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hoá, giáo dục đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tôi cũng biết, hiện nay Chính phủ đã có Hội đồng Quốc gia Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là khi bàn tới chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta sẽ thấy ngay, đây không chỉ là sản phẩm của giáo dục đào tạo, mà trong đó phải có cả yếu tố văn hóa. Rồi mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục như thế nào, đó cũng là điều cần trăn trở.
Trên thực tế, chúng ta nói nhiều về quan điểm coi văn hoá “là nền tảng tinh thần của xã hội”, còn giáo dục “là quốc sách hàng đầu”. Bảo vệ giá trị văn hoá là giữ được hồn cốt dân tộc, còn phát triển giáo dục đúng hướng là tăng cường sức mạnh của nguồn nhân lực Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế, dường như sự đầu tư cho văn hóa và giáo dục vẫn chưa đúng tầm.
Chúng ta không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển, cũng không thể bằng mọi giá để chạy theo chỉ tiêu tốc độ tăng GDP và thu nhập bình quân đầu người. Bởi muốn phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ phải nằm ở yếu tố con người, ở các giá trị văn hóa cốt lõi.
Nhiều vấn đề đang đặt ra tác động tiêu cực đến nhân cách con người Việt Nam hiện nay như tình trạng đảo lộn về hệ giá trị, bệnh thành tích, thiếu trung thực, những giá trị lệch chuẩn lên ngôi, làm suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống… có một phần nguyên nhân do tăng trưởng nóng, do sự lệch lạc trong phát triển kinh tế thị trường.
Việc đề nghị thành lập thêm Tổ tư vấn Văn hoá, Giáo dục bên cạnh Tổ tư vấn Kinh tế, hay là vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, suy cho cùng cũng chỉ hướng tới mong muốn Chính phủ cần có những quyết sách đúng đắn hơn, kịp thời hơn trong phát triển văn hoá, giáo dục.
Xin cảm ơn bà!
Kỷ luật không có "vùng cấm" nhưng phải trên tinh thần "trị bệnh cứu người"
Đó là ý kiến của ông Mai Trực, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khi tham luận tại Đại hội Đảng XIII chiều 27/1.
Ông Mai Trực - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Làm nghiêm từ trên xuống, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ
Tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII chiều 27/1, ông Mai Trực, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho biết, trong nhiệm kỳ vừa qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với trên 15.000 tổ chức đảng và trên 47.000 đảng viên (trong đó trên 23.000 là cấp ủy viên các cấp), giám sát trên 183.000 tổ chức đảng và trên 528.000 đảng viên (trong đó trên 154.000 là cấp ủy viên các cấp).
Đã tập trung nhiều vào những điểm "nóng", những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm như: việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; công tác cán bộ; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tha hóa quyền lực của đảng viên có chức quyền trong việc quyết định chủ trương, chính sách và trong công tác cán bộ; trách nhiệm nêu gương; quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, tài chính, ngân hàng; bảo vệ môi trường, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; thực hiện dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công...
Trong đó, có nhiều việc mới, việc tồn tại đã lâu, rất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương, gây bức xúc trong xã hội đã được phát hiện, làm rõ, kết luận và xử lý kỷ luật nghiêm minh nhiều tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Đã quyết định kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật hơn 1.300 tổ chức đảng và gần 70.000 đảng viên vi phạm, có cả những đồng chí giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang, đương chức hoặc đã nghỉ hưu,... với tinh thần làm nghiêm từ trên xuống, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, nhưng cũng rất nhân văn, mục đích chính là làm cho tổ chức đảng, đảng viên thấy được vi phạm, khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc phục.
"Điều đó đã khẳng định quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp và bản lĩnh của ngành kiểm tra trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Các tổ chức đảng sau khi được kiểm tra, giám sát đều đã quyết tâm khắc phục, sửa chữa vi phạm khuyết điểm, siết chặt lại kỷ luật, kỷ cương, tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt nhiều kết quả tích cực", ông Trực nói.
Đối với công tác phòng, chống tham nhũng, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra ở những nơi, những lĩnh vực mà trước đây ít hoặc chưa được kiểm tra như: cơ quan tư pháp, các cơ quan trong lực lượng vũ trang, các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước... Qua kiểm tra, đã kịp thời xử lý những đảng viên tham nhũng, xử lý nghiêm tổ chức đảng và đảng viên không chấp hành nghiêm các quy định của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng.
Kỷ luật để làm cho tổ chức đảng, đảng viên tiến bộ hơn
Theo ông Mai Trực, bước sang nhiệm kỳ Đại hội XIII, công tác kiểm tra giám sát tiếp tục khẳng định là một chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, "là thanh bảo kiếm của Đảng" nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp.
Công tác kiểm tra, giám sát sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống các quy định về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và các quy định về phòng chống tham nhũng, lãng phí gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực và kỷ luật của Đảng, kỷ luật hành chính, xử lý bằng pháp luật gắn với việc xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức để cán bộ đảng viên "không thể tham nhũng", "không dám tham nhũng", "không cần tham nhũng".
Đồng thời, có cơ chế để bảo vệ, khuyến khích cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn, đi đầu trong đổi mới vì sự phát triển. Việc đ.ánh giá, xử lý các sai phạm cần đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có quan điểm xử lý khách quan, đúng đắn, phù hợp.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp cần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và tạo bước tiến mới trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Tăng cường giám sát để giúp cho tổ chức đảng, đảng viên kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, vi phạm, không để khuyết điểm kéo dài trở thành vi phạm, vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, vi phạm của một người trở thành vi phạm của cả tập thể.
"Việc xử lý kỷ luật phải nghiêm minh, kịp thời, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, song, phải trên tinh thần nhân văn, "trị bệnh cứu người", mục đích là làm cho tổ chức đảng, đảng viên tiến bộ hơn, làm tốt hơn", ông Trực cho hay.
Đại biểu dự Đại hội XIII: Nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân Trước thềm đại hội, các đại biểu bày tỏ niềm vinh dự, nêu cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân đóng góp vào thành công chung của Đại hội. 1.587 đại biểu, đại diện cho gần 5,2 triệu Đảng viên cả nước dự phiên họp đầu tiên, phiên trù bị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII diễn...