Đầu tư cho ngành điện: Muốn hút vốn ngoại phải theo luật chơi quốc tế
Trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, việc thu hút đầu tư tư nhân từ trong nước và quốc tế vào ngành điện nói chung và vào các dự án điện độc lập (IPP) hiện nay còn nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi cần xây dựng cơ chế hữu hiệu huy động được nguồn lực quốc tế cho các dự án điện.
Đây là nội dung được trao đổi tại Hội thảo với chủ đề “Huy động vốn quốc tế cho các dự án điện độc lập” do Ban Kinh tế Trung ương và Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ( Vusta), Viện Nghiên cứu Quy hoạch và Phát triển phối hợp tổ chức ngày 24/11 tại Hà Nội.
Cần đáp ứng đủ các tiêu chí nhà đầu tư
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết 55 được đánh giá là có nhiều điểm mới, có tính đột phá trong phát triển năng lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước và phù hợp với xu thế của thời đại.
Ông Nguyễn Đức HIển, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương phát biểu. Ảnh: VGP.
Nghị quyết đã xác định quan điểm “khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng”, “thực hiện xã hội hoá tối đa trong đầu tư và khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ ngành năng lượng, bao gồm cả hệ thống truyền tải điện quốc gia trên cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh”.
Đồng thời, Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế tài chính và huy động vốn, đặc biệt cho đầu tư phát triển ngành điện. Cho đến tháng 8/2020, các dự án nguồn điện độc lập (IPP) đã được đầu tư và vận hành có công suất khoảng 16.400 MW (chiếm 28,3% công suất đặt ra của toàn hệ thống) và ngày càng có xu hướng tăng lên theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 55.
Tuy nhiên, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu khó khăn do thị trường vốn chưa phát triển, khó đáp ứng các yêu cầu phát hành ra công chúng.
Trong khi đó, nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng trong nước gặp khó khăn do các dự án năng lượng đòi hỏi nguồn vốn lớn song theo Luật Các tổ chức tín dụng, tổng mức dư nợ cấp tín dụng của một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành điện cũng còn một số vướng mắc trong lĩnh vực quản lý ngoại hối…
Ông Nguyễn Đức Hiển phân tích, để huy động được nguồn vốn quốc tế cho các dự án điện độc lập, đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các yêu cầu và luật chơi quốc tế. Đồng thời, dòng vốn quốc tế cho dù rất lớn nhưng sẽ chỉ dịch chuyển về các quốc gia đáp ứng 3 tiêu chí gồm: Có quy mô thị trường đủ lớn; có khả năng sinh lời ở mức hấp dẫn; rủi ro thấp.
“Với tổng mức đầu tư gần 13-15 tỷ USD/năm, quy mô thị trường Việt Nam là đủ sức hấp dẫn”, ông Hiển khẳng định.
Video đang HOT
Xây dựng cơ chế rõ ràng, hài hoà lợi ích các bên
Mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng, nhưng Phó Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển lưu ý, để tăng khả năng sinh lời và giảm rủi ro nhằm thu hút được dòng vốn quốc tế, trên bình diện quốc gia, Việt Nam cần coi trọng vai trò của xếp hạng tín nhiệm quốc gia vì thông qua đó sẽ giúp Chính phủ, định chế tài chính và doanh nghiệp khi huy động vốn vay hoặc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế có thể giảm được chi phí huy động vốn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng cần phải thực thi để tuân thủ luật chơi quốc tế là cần chuẩn hóa, minh bạch theo thông lệ quốc tế về hợp đồng mua bán điện (PPA) vì đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chi phí vốn, trong đó cần lưu ý có cơ chế chia sẻ, phân bổ rủi ro hợp lý, tránh chỉ đẩy rủi ro cho các nhà đầu tư.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh:VGP.
Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cho rằng, để khơi thông được nguồn vốn quốc tế quan trọng này, cần xây dựng cơ chế vận hành, các điều kiện và cách tiếp cận, thu hút dòng vốn này trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế kết hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
“Việc xây dựng một khung pháp lý phù hợp là rất cần thiết, nhất là với một số vấn đề liên quan đến chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sự tham gia của các tổ chức tài chính và tín dụng xuất khẩu, xây dựng các thỏa thuận mua bán điện phù hợp và chú trọng cơ chế nâng cao tín dụng…”, ông Nguyễn Đức Hiển nói.
Dưới góc độ ngân hàng, đại diện NHNN khẳng định, ngân hàng duy trì chính sách nhất quán, xoá bỏ dần những rào cản, thủ tục, phân biệt đối xử, tạo sân chơi thông thoáng.
Còn đại diện đến từ ngân hàng VietinBank cho biết, ngân hàng này hiện nay có thể tài trợ cho 1 nhóm khách hàng liên quan là 1,1 tỷ USD; cho 1 cá nhân là 630 triệu USD. VietinBank ưu tiên tài trợ đối với lĩnh vực năng lượng, đã và đang tài trợ 150 dự án phát điện, nhiều dự án có quy mô và công suất lớn hơn 100 MW; 20 dự án truyền tải điện; tài trợ nhiều dự án IPP lớn và hiệu quả, như điện mặt trời, điện gió, thủy điện…
Tuy nhiên, theo đại diện đến từ ngân hàng này, thực hiện các dự án điện IPP, chi phí rủi ro cao hơn với các nước phát triển; chưa có nhiều sự tham gia của nhà đầu tư quốc tế dẫn đến chi phí vốn cao; hợp đồng mua bán điện chưa có điều khoản bồi thường thay đổi luật pháp… Do đó, cần hình thành các quỹ về hỗ trợ vốn cho các dự án phát triển năng lượng bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm; có cơ chế đặc thù để khơi thông nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Đại diện đến từ VietinBank cũng nêu kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét giảm tỉ lệ trích lập dự phòng rủi ro đối với dư nợ tín dụng tài trợ các dự án điện; áp dụng hệ số rủi ro với dự án điện thấp hơn các ngành thông thường
Ông Đặng Huy Đông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quy hoạch và Phát triển (PDI) (nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, năng lượng là một kết cấu hạ tầng không thể thiếu để đảm bảo duy trì tăng trưởng của nền kinh tế.
Ông Đặng Huy Đông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quy hoạch và Phát triển (PDI) . Ảnh:VGP.
Theo khảo sát, thị trường vốn quốc tế rất lớn, hàng chục nghìn tỷ USD, dư sức thỏa mãn nhu cầu vốn của Việt Nam. Nhưng dòng vốn quốc tế có tính cạnh tranh rất cao theo đúng quy luật cung cầu và được vận hành theo những chuẩn mực nhất định, rất chặt chẽ, đòi hỏi mọi người tham gia thị trường phải tuân thủ, không có ngoại lệ.
Đặc biệt cũng như các hàng hóa khác, dòng vốn cũng có giá, ở đây được xác định bởi mức độ rủi ro của khoản đầu tư. Rủi ro cao, chi phí cao và kỳ vọng lợi nhuận cao hoặc ngược lại.
Do đó, Việt Nam cần nâng cao hiểu biết về thị trường vốn quốc tế, các điều kiện cứng và các điều kiện có thể thương thảo của các bên cho vay; định vị lại nền kinh tế của mình dưới góc nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài; tìm kiếm những cơ hội để cải thiện vị thế trên thị trường thế giới …
Cần tích cực học hỏi kinh nghiệm từ những định chế tài chính quốc tế và các tổ chức tư vấn uy tín trên thế giới cung cấp thông tin cập nhật và chia sẻ kinh nghiệm thực tế về thị trường vốn quốc tế.
“Với những kinh nghiệm có được, Việt Nam có thể áp dụng trong thiết kế khung chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút dòng vốn đầu tư quốc tế để tiếp sức cho nền kinh tế, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế nhanh và bền vững trong thập niên tới”, ông Đặng Huy Đông nói.
"Khơi dòng" hút tư nhân đầu tư vào ngành điện
Trong bối cảnh nguồn vốn nhà nước đầu tư vào các dự án điện ngày càng khó khăn, việc thu hút đầu tư tư nhân được xem là giải pháp khả thi nhằm tìm "lối đi" cho ngành này thời gian tới. Muốn "hút" vốn tư nhân, mấu chốt nhất vẫn là phải đảm bảo cơ chế giá hấp dẫn.
Hai năm vừa qua đánh dấu sự bùng nổ của các dự án điện mặt trời, điện gió với đại đa số thuộc về các chủ đầu tư tư nhân . Ảnh: Nguyễn Thanh
Vướng nhiều bề
Theo Bộ Công Thương, những năm trước đây, các dự án điện đều do các DN nhà nước xây dựng và vận hành, song đến nay quy mô và tỷ trọng của các nhà đầu tư tư nhân đã ngày càng lớn. Cụ thể, đến cuối năm 2019, trong cơ cấu nguồn điện cả nước đã có công suất 19.253 MW thuộc khối tư nhân (bao gồm cả các nhà máy điện được đầu tư theo hình thức dự án điện độc lập (IPP) và hình thức dự án Đầu tư-Kinh doanh-Chuyển giao (BOT), chiếm tới 34,4%).
Dự báo từ nay đến năm 2030, nhu cầu điện sẽ tăng bình quân khoảng 7,5 - 8%/năm. Theo kết quả sơ bộ của Báo cáo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) do Viện Năng lượng nghiên cứu, dự báo nhu cầu sản xuất điện ở kịch bản cơ sở đến năm 2030 khoảng trên 526 tỷ kWh, tương ứng với công suất đặt nguồn điện toàn hệ thống là 131.000 MW. Với quy mô tổng công suất nguồn điện năm 2019 khoảng 55.900 MW, từ nay đến năm 2030 sẽ cần xây dựng thêm 75.100 MW nguồn điện, trung bình mỗi năm 7.500 MW.
Hai năm vừa qua đánh dấu sự bùng nổ của các dự án điện mặt trời, điện gió với đại đa số thuộc về các chủ đầu tư tư nhân với tổng công suất lên tới 5.700 MW (chiếm khoảng 10% công suất nguồn điện). Từ nay đến năm 2030, mỗi năm Việt Nam cần trung bình khoảng 7.500 MW công suất nguồn điện mới, với nhu cầu vốn đầu tư khoảng 7 - 8 tỷ USD/năm.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng nhìn nhận, thị trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong ngành điện là tiềm năng lớn. Sự tích cực, năng động của các nhà đầu tư tư nhân đang là nguồn lực lớn cho phát triển ngành năng lượng trong tương lai. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thường xuất hiện các khó khăn, vướng mắc. Điển hình như, sự bất cập, chưa theo kịp thực tế của các hướng dẫn và các quy định pháp luật; hạ tầng cơ sở hệ thống lưới điện còn yếu, chưa sẵn sàng để "một sớm một chiều" tiếp nhận và truyền tải cho dự án nguồn điện với quy mô lớn; sự thiếu đồng bộ phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương trong công tác hỗ trợ nhà đầu tư (đền bù đất đai, giải tỏa mặt bằng...)... "Các khó khăn thách thức đó tác động, ảnh hưởng đến mọi nhà đầu tư, kể cả thuộc khối nhà nước lẫn khối tư nhân trong và ngoài nước", Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng nói.
Từ góc độ nhà đầu tư, ông Ngô Quốc Hội, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Nhiệt điện An Khánh-Bắc Giang cho biết, hơn 1 năm nay, Dự án Nhà máy Nhiệt điện An Khánh - Bắc Giang có tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD phải dừng vì chưa ký được hợp đồng mua bán điện (PPA). Mặc dù DN cùng các đối tác nỗ lực thu xếp vốn cho gói thầu tổng thầu (EPC) nhưng do đang gặp khó khăn, vướng mắc nên chưa có nguồn vốn để triển khai thực hiện. Theo quy định hiện hành tại Luật Các tổ chức tín dụng, DN bị giới hạn bởi quy định cho vay đối với một dự án không quá 15% và đối với nhóm khách hàng có liên quan không quá 25% vốn tự có của ngân hàng. Với quy định như vậy, nhu cầu vay vốn từ ngân hàng trong nước của dự án nhà máy điện nói trên rất khó khăn. Hơn nữa, lãi suất vay vốn các ngân hàng trong nước để thực hiện các dự án điện IPP rất cao, dẫn đến giá điện bán cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng cao vượt giá trần quy định khiến các dự án khó thu xếp vốn trong bối cảnh hiện nay.
"Đối với nguồn vốn ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế đưa ra điều kiện tiên quyết phải có bảo lãnh của Chính phủ Việt Nam, trong khi hiện nay Chính phủ hạn chế bảo lãnh vay vốn đối với các dự án", ông Hội nhấn mạnh.
Mấu chốt là cơ chế giá hấp dẫn
Chuyên gia năng lượng Nguyễn Thành Sơn đánh giá, khó khăn lớn nhất khi tư nhân đầu tư dự án điện là về mặt vĩ mô chứ không phải khó khăn của từng dự án. Xoáy sâu vào trường hợp các dự án IPP, vị này phân tích, vốn chưa hẳn là vướng mắc khiến các dự án IPP chậm tiến độ mà là kỹ thuật và giá mua điện từ các dự án. IPP của thế giới là tự sản tự tiêu là chính, phần bán lên lưới hoặc mua lại của lưới rất ít. Trong khi đó dự án IPP của Việt Nam lại khác, gần như bán hoàn toàn lên lưới. Vì vậy, một số ý kiến cho rằng áp dụng hợp đồng PPA theo mẫu của thế giới cho các dự án điện theo hình thức IPP có lẽ phải xem lại.
Nhấn mạnh vào góc độ thúc đẩy tư nhân đầu tư lưới điện, ông Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, hiện nay có tình trạng sản xuất ra điện nhưng vì đường dây truyền tải điện có sự hạn chế nên không phát hết công suất các dự án. "Làm thế nào cho khu vực tư nhân tham gia vào phát triển mạng lưới truyền tải điện? Chúng ta bắt buộc phải có cơ chế đột phá, tự do hóa một phần để khu vực tư nhân nhanh chóng tham gia vào. Nhiều nhà đầu tư rất mong chờ cơ chế, chính sách thuận lợi, dài hơi. Tất nhiên, chúng ta vẫn phải đảm bảo an ninh năng lượng, đường truyền tải điện thuộc về an ninh quốc gia, nên cần phải có tính toán kỹ lưỡng", ông Tuấn nói.
Theo tìm hiểu của phóng viên, hiện nay Bộ Công Thương cũng đang triển khai nhiều cơ chế để khuyến khích thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân phát triển các dự án nguồn và lưới điện. Điển hình như ở lĩnh vực nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương đã và đang nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách cho giai đoạn tới như: Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), cơ chế đấu thầu để vừa thu hút đầu tư, tăng cường tính minh bạch, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước và doanh nghiệp và đáp ứng các mục tiêu phát triển của ngành điện.
Ở khâu hạ tầng truyền tải điện, Bộ Công Thương cho rằng để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia đầu tư thì cơ chế khuyến khích về giá phát điện là một trong giải pháp chính, tạo động lực cho nhà đầu tư phấn đấu thực hiện đầu tư của dự án, trong đó có đầu tư hạ tầng lưới điện đấu nối.
Nhấn mạnh về mối tương quan giữa chính sách giá điện và các nguồn lực ngoài nhà nước vào đầu tư năng lượng, đại diện lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) bày tỏ quan điểm: "Khi nhà đầu tư thấy mức giá bảo đảm thu lại được chi phí bỏ ra và có lợi nhuận thì họ sẽ đầu tư. Thậm chí, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng truyền tải để đảm bảo nguồn lợi nhuận này".
Dệt may Thành Công (TCM) lãi 138 tỷ đồng sau 7 tháng CTCP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (mã TCM) cho biết, tính đến hết tháng 7/2020, TCM ghi nhận doanh thu 2.027 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 138 tỷ đồng, hoàn thành 54% kế hoạch doanh thu và 73% kế hoạch lợi nhuận cả năm Trong đó, tính riêng tháng 7/2020, TCM đạt doanh thu 342 tỷ...