Đào tạo bác sĩ: Không giống ai!
Nếu hỏi một sinh viên y khoa nước ngoài vì sao học bác sĩ, họ trả lời “để phục vụ cộng đồng, bệnh nhân, rồi mới đến gia đình, bản thân”. Còn ở ta thì ngược lại.
BS Nguyễn Hữu Tùng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Hành nghề y tư nhân TP.HCM: Sinh viên y khoa của ta và thế giới giống nhau nhưng phương pháp đào tạo, chương trình đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất dạy và học, môi trường học, lý tưởng phục vụ sau ra trường thì khác nhau rất nhiều.
Xác lập y đức ngay từ đầu vào
Phóng viên: Thưa bác sĩ, ở nước ngoài để trở thành sinh viên y khoa thì sinh viên phải học gì trước đó? Họ phải thi những gì? Có giống thi khối B là toán, hóa, sinh như ở Việt Nam không?
BS Nguyễn Hữu Tùng: Tùy theo các nước Mỹ, Canada hoặc ở châu Âu, châu Úc và các nước châu Á. Như ở Mỹ và Canada, đại đa số các trường y khoa đều có chương trình bốn năm để thành bác sĩ đa khoa (Medical Doctor). Tuy nhiên, sinh viên muốn vào thì phải trúng tuyển kỳ thi MCAT (Medical Colleges Admission test) và một bài khảo sát để biết ước muốn sinh viên về nghề y và cuối cùng là trải qua kỳ phỏng vấn của hiệu trưởng trường. Mục tiêu là để tìm kiếm và xác lập y đức cho được một bác sĩ tương lai ngay từ đầu vào. Chương trình MCAT giống chương trình học ĐH khoa học tự nhiên và khoa học cơ bản ở nước ta cộng với kiến thức y khoa cơ bản. Do đó nó không giống như thi ở ta, ở ta thi toán, hóa, sinh thì gần giống như thi cuối khóa THPT, điều này chỉ có thể áp dụng cho chương trình sáu năm ĐH.
Nhưng bác sĩ đa khoa bốn năm có được khám bệnh, thủ thuật?
Không. Như ở Mỹ, sau bốn năm học cử nhân khoa học, sinh viên này phải có điểm trung bình theo yêu cầu thì mới đủ điều kiện nộp đơn thi vào trường y khoa. Nếu đậu thì sinh viên học thêm bốn năm y khoa, hai năm lấy bằng USMLE-1 (United State Medical Lisence Examination) và hai năm lấy bằng USMLE-2 và trở thành bác sĩ đa khoa – M.D), học tiếp tục vào nội trú (Recidency – đây là chương trình bắt buộc ai cũng phải học, dù chỉ muốn làm bác sĩ tổng quát, bác sĩ gia đình hay giải phẫu). Nhưng nếu học đa khoa, nội khoa thì dễ hơn khoa phẫu thuật hay nhãn khoa… Thời gian học chuyên khoa thì tùy vào chuyên ngành chọn, thường là ba năm (nội khoa) hoặc 5-7 năm (phẫu thuật, chỉnh hình…). Trong thời gian học chuyên khoa thì phải thi lấy bằng USMLE-3. Học chuyên khoa nhưng người học được trả lương, nhiều nơi còn có thêm tiền ăn, sách vở, kinh phí đi tham dự các hội nghị.
Sau khi lấy được USMLE-3, bác sĩ có thể khám bệnh, tham gia thủ thuật! Khi đã trở thành bác sĩ hành nghề, họ được quản lý bởi hiệp hội y-sĩ đoàn. Đây là hiệp hội tư nhân độc lập và quản lý về ngành nghề, luật pháp hành nghề, kể cả luật y đức.
Nghĩa là chương trình đào tạo sinh viên y khoa hiện nay của ta không giống ai?
Trước năm 1975, muốn vào Trường Y khoa Sài Gòn chẳng hạn thì phải đậu được năm dự bị ĐH. Chương trình của năm này giống chương trình MCAT vậy. Do đó sinh viên y khoa trước năm 1975 là bảy năm, bây giờ còn sáu năm.
Chương trình đào tạo y khoa tại Việt Nam chúng ta cũng giống các nước lân cận và đa số các nước châu Âu. Tuy nhiên, các nước châu Âu người ta đầu tư bài bản cho nên dạy và học, mỗi trường y khoa hằng năm không tuyển quá 100 sinh viên.
Video đang HOT
Trên thế giới, chương trình khoa học cơ bản trong trường y khoa những năm đầu rất quan trọng, sau đó chương trình y học lâm sàng cũng rất nặng, kể cả việc giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn sinh viên tại giường bệnh phải cần đội ngũ thầy cô giỏi, họ không chỉ là những người luôn hiểu biết kiến thức y khoa sâu, rộng trong ngành mà còn là hình ảnh đạo đức chuẩn mực trong ngành y cũng như trong cuộc sống.
Còn hiện tại ở Việt Nam chúng ta, vì nhu cầu bác sĩ để phục vụ xã hội quá cao mà thời gian đào tạo bác sĩ lại dài, những yếu tố đó làm chúng ta dễ thỏa hiệp ước muốn giảng dạy bác sĩ giống như giảng dạy ngành nghề khác.
Bác sĩ Việt tự “treo giá”, bệnh nhân là hàng hóa
Vậy chúng ta phải làm gì để có sinh viên y khoa chất lượng, thưa bác sĩ?
Với tình trạng này thì hiện tại bệnh nhân đang trở thành hàng hóa. Bác sĩ cũng đang biến mình thành loại hàng hóa. Bác sĩ tự “treo giá” và bên phía tìm kiếm nguồn lực nhân sự chuyên môn cũng đang đau đầu về việc lập giá để tuyển nhân sự, nhất là ở bệnh viện, phòng khám tư nhân. Tay nghề bác sĩ và chính sách để có nguồn nhân lực chuyên môn của chúng ta hiện tại đang có chênh nhau rất nhiều so với thế giới.
Tình trạng hiện nay đang biến bệnh nhân và bác sĩ trở thành hàng hóa. (Ảnh minh họa: Duy Tính)
Mặt khác, thực trạng sinh viên y khoa đông, thiếu thầy hướng dẫn lâm sàng. Thầy phải chịu áp lực quá nhiều công việc công và tư, thời gian dành cho sinh viên không nhiều, thiếu kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng. Sự giúp đỡ của nhà trường và thầy đối với sinh viên còn hạn chế, không đủ năng lực trực tiếp chỉ dạy, do đó chất lượng thấp là điều dể hiểu.
Do vậy, Nhà nước cần thông thoáng hơn, cho phép mở trường y khoa hoặc khoa y với điều kiện cao hơn: Mức đầu tư/sinh viên phải cao (hiện nay chi phí đào tạo cho một sinh viên y khoa là 36 triệu đồng đồng/năm, so với nước ngoài trung bình từ 30.000 đến 80.000 USD/năm), hợp tác quốc tế trong đầu tư, liên kết đào tạo y khoa, thay đổi chương trình dạy y khoa, tạo chủ động cho sinh viên hơn, tránh học từ chương, chấp nhận chương trình giảng dạy ở các nước tiên tiến như Hoa Kỳ chẳng hạn. Không cần phải nghiên cứu thêm gì khác vì người ta đã thành công hàng trăm năm rồi. Nên chấp nhận quan điểm “muốn có bác sĩ chất lượng cao thì giá phải đắt”, đã trả giá đắt rồi thì người bệnh được trả giá thấp hơn, xã hội sẽ tiết kiệm được nhiều hơn từ y tế.
Theo bác sĩ thì có nên thay đổi cách chọn đối tượng vào ngành y không hay vẫn cứ thi ĐH từ học sinh phổ thông?
Cần thay đổi chứ! Hiện tại chúng ta có 14 trường ĐH y khoa công lập và có một số khoa y của trường ĐH tư thục đang hoạt động là tương đối ổn nhưng cũng có thể mở một vài trường y nữa với chất lượng cao. Vấn đề là chúng ta phải “tập thay đổi chương trình và phương pháp giảng dạy”. Thí dụ nên tuyển đầu vào là cử nhân ĐH Khoa học Tự nhiên hoặc ĐH Tổng hợp hoặc những trường ĐH có những môn học phù hợp để sinh viên có thể thi vào trường y khoa. Chúng ta có nhiều chương trình đào tạo sinh viên y khoa như đào tạo sáu năm, tám năm (bốn cử nhân khoa học bốn năm y khoa) chẳng hạn.
Sinh viên y khoa ĐH vừa đông về lượng nhưng thiếu về chất, học sinh y khoa trung cấp, sơ cấp đang đào đạo ở mức độ “báo động thừa”, vấn đề này ông nghĩ thế nào?
Hiện tại nguồn nhân lực y tế trung cấp, sơ cấp cung vượt cầu là do các nhà đầu tư không có định hướng đầu tư, không nghiên cứu về chất lượng đào tạo như thế nào thì sự đào tạo của mình mới được xã hội chấp nhận. Do đó đã đến lúc các nhà đầu tư trường y khoa ở các cấp nên nhìn nhận lại vấn đề “đào tạo người thầy thuốc không bao giờ giống với đào tạo ngành nghề khác”, không thể giống nhau, cào bằng được!
Xin cảm ơn bác sĩ.
Con đường để trở thành một bác sĩ ở Anh rất chông gai. Đầu tiên, sinh viên phải thi vào học kiến thức y khoa ở trường y trực thuộc một trường ĐH và thực hành khám, chữa bệnh ở bệnh viện. Thời gian này kéo dài sáu năm. Tiếp theo là hai năm theo đuổi chương trình nền, nghiên cứu, thẩm tra năng lực mình ở nhiều chuyên ngành khác nhau để chọn ra một chuyên ngành mình sẽ theo đuổi. Mọi sinh viên y khoa đều phải trải qua giai đoạn này trước khi bước vào giai đoạn đào tạo chuyên ngành với thời gian 3-6 năm tùy chuyên ngành. Tại Nhật, đầu vào được chọn dựa vào điểm thi tốt nghiệp trung học và điểm thi đầu vào của trường ĐH mà trường y là một khoa. Thời gian đào tạo là sáu năm, bốn năm đầu học lý thuyết trong trường, hai năm cuối thực hành tại bệnh viện của chính trường ĐH đó. Hoàn thành sáu năm, sinh viên phải thi lấy giấy phép hành nghề bác sĩ, nếu đậu phải đăng ký hồ sơ tại Bộ Y tế trước khi hành nghề. Singapore : Trường y Duke-NUS là sự hợp tác giữa ĐH Duke (Mỹ) và ĐH Quốc gia Singapore. Quy trình tuyển chọn sinh viên y khoa đầu vào của Duke-NUS cũng giống ở Mỹ, mọi sinh viên muốn vào học phải đạt một bằng cử nhân trước đó. Vì vậy, hầu hết độ tuổi sinh viên đầu vào là 24. Quá trình đào tạo bác sĩ ở Duke-NUS kéo dài bốn năm theo chương trình giảng dạy của Trường y Duke thuộc ĐH Duke. Điểm chuẩn kỳ thi MCAT để chọn đầu vào khá cao, tùy theo năm. Năm 2011 là 33 điểm. Ngoài điểm MCAT, các tiêu chuẩn khác để Trường Duke-NUS đánh giá chọn sinh viên là quá trình học tập trước đó, kinh nghiệm hoạt động vì cộng đồng, kinh nghiệm nghiên cứu, độ chín chắn về xã hội.
Theo Duy Tính
Pháp luật TPHCM
Chủ biên lên tiếng vụ "biến" thơ Trần Đăng Khoa thành tác phẩm dân gian
Những ngày qua dư luận xôn xao quanh việc cuốn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam" in nhầm truyện thơ "Đi đánh thần hạn" của nhà thơ Trần Đăng Khoa thành truyện... dân gian Bạc Liêu. Trước dư luận, PGS.TS Nguyễn Thị Huế- chủ biên của cuốn từ điển trên đã lên tiếng.
Liên quan đến những ồn ào xung quanh cuốn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam" của nhóm biên soạn Viện Văn học, do PSG.TS Nguyễn Thị Huế làm chủ biên, báo Dân trí đã đăng tải ý kiến của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Để rộng đường dư luận, phóng viên Dân trí đã có cuộc gặp với chủ biên- PGS.TS Nguyễn Thị Huế.
Trả lời phóng viên Dân trí chiều 26/7 về những ồn ào xung quanh vụ việc của cuốn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam", PGS.TS Nguyễn Thị Huế cho biết, "Cá nhân tôi rất bất ngờ trước những bài viết đăng tải trên báo chí xung quanh việc cuốn từ điển của chúng tôi in nhầm truyện thơ Đi đánh thần hạn của nhà thơ Trần Đăng Khoa thành truyện dân gian Bạc Liêu. Ngay khi có dư luận về sự việc, tôi đã gọi điện cho nhà thơ Trần Đăng Khoa trao đổi rõ hơn với nhà thơ về công việc nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã làm đúng quy trình biên soạn của mình, và tôi nghĩ nhà thơ đã hiểu. Đây chỉ là sự hiểu lầm đáng tiếc, bản chất sự việc không có gì to tát cả".
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Huế, trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm những câu chuyện dân gian để hoàn thành cuốn từ điển, nhóm các nhà nghiên cứu đã sử dụng tư liệu của cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu do PGS. Chu Xuân Diên (chủ biên), Nxb. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005. Đây là công trình do Khoa Ngữ văn và Báo chí Đại học KHXH&NV - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Trong cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu, truyện Đi đánh thần hạn được xếp ở phần Thần thoại (trang số 4 đến trang số 6). Từ khi cuốn sách Văn học dân gian Bạc Liêu được công bố đến nay đã có một độ lùi về thời gian và trong thời gian ấy không hề có một ý kiến phản hồi nào nên nhóm tác giả biên soạn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam" đã hoàn toàn yên tâm sử dụng.
Năm 2011, cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội tái bản có bổ sung. Truyện Đi đánh thần hạn (từ trang 29 đến trang 31) cũng có nội dung như bản kể năm 2005.
Truyện thơ "Đi đánh thần hạn" của nhà thơ Trần Đăng Khoa được in trong mục truyện Thần thoại trên cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu
"Như vậy, về nguyên tắc chúng tôi đã sử dụng văn bản truyện kể đều có xuất xứ và ở dưới dạng tự sự và đã được công bố, xuất bản. Công trình của chúng tôi không hề sử dụng tác phẩm của nhà thơ với dụng ý ngoài khoa học mà biên soạn trên nguồn tư liệu đã được công bố cách đây 8 năm về trước và được tái bản cách đây 2 năm. Chúng tôi sưu tầm tài liệu dựa trên 3 cơ sở: nội dung tác phẩm, tác phẩm được thẩm định với độ lùi thời gian nhất định và tác phẩm không bị kiện cáo, tranh chấp bản quyền. Chúng tôi đã làm đúng. Chúng tôi không vi phạm nguyên tắc biên soạn công trình theo nguyên tắc folkloer học. "- PGS.TS Nguyễn Thị Huế khẳng định.
PGS.TS Nguyễn Thị Huế cho biết thêm, một tác phẩm văn học được phổ biến trong dân gian ( khiến nhiều người nhầm tưởng là thơ ca dân gian) nhưng hoá ra lại là tác phẩm của một nhà thơ nhà văn cụ thể nào đó từng xảy ra rất nhiều. Các nhà folklore đã gọi hiện tượng này là tác phẩm folklore có nguồn gốc văn học.
Phân tích về quá trình nghiên cứu, biên soạn cuốn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam" có sử dụng tài liệu là cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu, nhưng PGS.TS Nguyễn Thị Huế không phủ nhận, việc nhầm lẫn này là một sai sót của nhóm nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện tác phẩm của mình.
"Chúng tôi đã đọc ý kiến từ dư luận cho rằng chúng tôi cẩu thả, sự thật, chúng tôi không cẩu thả. Chúng tôi đã có hàng chục năm gắn bó với nghề nghiên cứu, mỗi chúng tôi đều đã nỗ lực, cố gắng hết sức để tác phẩm của mình được hoàn thiện, nhưng sẽ rất khó để có được một tác phẩm toàn bích. Khi nhà thơ Trần Đăng Khoa nói đó là tác phẩm của anh, chúng tôi rất bất ngờ. Cá nhân tôi cho rằng, có thể, trong quá trình sưu tầm các tác phẩm dân gian để biên soạn thành cuốn Văn học dân gian Bạc Liêu, các bạn sinh viên khoa ngữ văn đã mắc chút sai lầm, nhưng những điều đó là cảm thông được. Trước một công trình nghiên cứu lớn, những sai sót nhỏ là không tránh khỏi. Đây cũng sẽ là bài học để chúng tôi rút kinh nghiệm những lần sau này"- PGS. TS Nguyễn Thị Huế nói.
Bên cạnh đó, PGS.TS Nguyễn Thị Huế bày tỏ quan điểm trước những bức xúc của dư luận quanh cuốn "Từ điển type truyện dân gian Việt Nam" những ngày qua.
"Dư luận cho rằng chúng tôi "ăn" tiền nhà nước với nghiên cứu của mình. Xin thưa, chúng tôi có được nhà nước bảo trợ, nhưng số tiền đó nếu so sánh có khi không bằng số tiền bỏ ra làm 1 m2 đường. Công việc của chúng tôi là nghiên cứu. Chúng tôi hưởng lương viên chức. Sinh viên ra trường bây giờ đều muốn đi làm những công việc kiếm ra tiền, có ai muốn về các viện nghiên cứu? Nếu ở các viện nghiên cứu, chúng tôi chỉ ngồi trên tiền để viết sách, tại sao sinh viên ra trường không ai muốn về?".
PGS.TS Nguyễn Thị Huế giải thích thêm về những thuật ngữ tiếng Anh dùng trong cuốn từ điển, theo PGS những từ tiếng Anh được nhóm biên soạn dùng là nhóm thuật ngữ chuyên ngành đã được cả thế giới công nhận, bất kỳ nhà nghiên cứu trong ngành nào khi đọc những thuật ngữ này cũng sẽ hiểu.
"Biết rằng, công trình khó tránh khỏi những sai sót, chúng tôi xin được đón nhận những ý kiến đánh giá toàn diện, khách quan, và công bằng, thiện ý của bạn đọc cũng như những nhà chuyên môn"- PGS. TS Nguyễn Thị Huế nói.
Theo Dantri
Quảng Ngãi hỗ trợ mỗi tiến sĩ 350 triệu đồng Ngoài hưởng lương theo quy định Nhà nước, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ hay bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa 2 (chuyên ngành sản phụ khoa) sẽ được tỉnh Quảng Ngãi hỗ trợ đến 350 triệu đồng khi nhận nhiệm vụ. HĐND tỉnh Quảng Ngãi vừa ban hành chính sách thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao và...