Đánh thuế cổ tức cổ phiếu… tức đến tận cổ!
Nghị định 126 hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế trên thị trường chứng khoán đang vấp phải nhiều ý kiến trái chiều cả về mục đích đánh thuế lẫn cách thu.
Theo quy định tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 5/12/2020, nhà đầu tư bán chứng khoán được chia thưởng, được trả cổ tức sẽ bị khấu trừ 5% thuế thu nhập cá nhân.
Nghị định 126 nêu rõ, đối với cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán, cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán thì tổ chức có trách nhiệm khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi cá nhân chuyển nhượng chứng khoán cùng loại.
Đánh thuế cổ tức cổ phiếu liệu có hợp lý?
Đối với chứng khoán thông qua hệ thống giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là công ty chứng khoán (CTCK), ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản lưu ký, công ty quản lý quỹ nơi cá nhân ủy thác danh mục đầu tư.
Đối với chứng khoán không thông qua hệ thống giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay sẽ thực hiện theo quy định: Chứng khoán của công ty đại chúng đã đăng ký chứng khoán tập trung tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là CTCK, ngân hàng thương mại nơi cá nhân mở tài khoản lưu ký;
Chứng khoán của CTCP chưa là công ty đại chúng nhưng tổ chức phát hành chứng khoán ủy quyền cho CTCK quản lý danh sách cổ đông thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là CTCK nhận ủy quyền; chứng khoán không thuộc trường hợp quy định nêu tại đoạn này thì tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay là tổ chức phát hành chứng khoán.
Trước thềm Nghị định 126 chính thức có hiệu lực, nhiều công ty chứng khoán đã có thông báo tới các nhà đầu tư về việc nộp thuế thu nhập cá nhân đối với cổ phiếu trả cổ tức, cổ phiếu thưởng.
Theo đó, các công ty chứng khoán sẽ thực hiện khấu trừ thuế thu nhập cá nhân khi nhà đầu tư bán, chuyển nhượng cổ phiếu mà công ty có căn cứ xác định là cổ phiếu cổ tức/cổ phiếu thưởng chốt quyền từ ngày 5/12/2020.
Như vậy, với quy định này, các công ty chứng khoán sẽ phải điều chỉnh lại hệ thống quản lý tài khoản của nhà đầu tư, tách bạch các loại cổ phiếu để thực hiện khấu trừ khi nhà đầu tư bán chứng khoán.
Video đang HOT
SSI gửi thông tin đến nhà đầu tư.
Thu thuế cổ tức cổ phiếu liệu có thoả đáng?
Sắc thuế mới này đang vấp phải nhiều ý kiến trái chiều cả về mục đích đánh thuế lẫn cách thu. Nhiều người cho rằng sắc thuế đánh trên cổ phiếu thưởng, cổ tức bằng cổ phiếu là bất hợp lý, gây thuế chồng thuế, đẩy thiệt hại về phía các nhà đầu tư.
Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) cũng vừa có văn bản lên tiếng phản đối việc áp thuế với cổ phiếu thưởng, cổ tức bằng cổ phiếu.
Theo VAFI, trả cổ tức bằng cổ phiếu không phải là hình thức phân phối lợi nhuận sau thuế hay chia tiền mặt cho cổ đông.
Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm chia, không làm giảm lợi nhuận chưa phân phối của doanh nghiệp như trường hợp chia cổ tức bằng tiền mặt, không làm tăng giá trị cổ phiếu về mặt sổ sách và thị giá (lý thuyết song trên thực tế sau chia tách thì thị giá cổ phiếu có thể giảm hoặc tăng tùy thuộc nhiều yếu tố), nên khi cổ đông nhận được cổ phiếu thì khoản này không được coi là thu nhập từ đầu tư vốn.
Điều 3 Điểm 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2014 có qui định thu nhập từ đầu tư vốn bao gồm tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần, thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức đầu tư khác
VAFI cho rằng trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng không thể coi là thu nhập từ đầu tư vốn vì những nghiệp vụ này doanh nghiệp không mất một đồng trả cho nhà đầu tư.
Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng ngoài việc làm tăng tính thanh khoản của cổ phiếu, còn ghi nhận sự tăng tài sản, tăng vốn điều lệ doanh nghiệp nhờ kinh doanh có lãi. Do đó, việc đánh thuế cổ phiếu thưởng là điều không hợp lý.
Bên cạnh đó, việc phải đóng thêm thuế khi nhận cổ tức bằng cổ phiếu có thể dẫn đến việc nhà đầu tư bị đánh thuế chồng thuế. Trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư khi bán cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đều phải nộp thuế 0,1%.
Nhưng khi Nghị định 126 này có hiệu lực, ngoài số thuế 0,1% vừa nêu, nhà đầu tư phải đóng thêm thuế thu nhập cá nhân 5% khi bán số cổ phiếu là cổ tức hoặc cổ phiếu thưởng đã nhận được.
Đây là “thuế chồng thuế” bởi các doanh nghiệp chỉ được trả cổ tức từ lợi nhuận sau thuế. Điều này đồng nghĩa doanh nghiệp đã đóng thuế cho nhà nước trên lợi nhuận làm ra. Sau đó cổ đông nếu nhận cổ tức bằng tiền đã phải đóng thuế 5% và doanh nghiệp khấu trừ tại nguồn.
Như vậy, nhà đầu tư khi được trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ nhận được gì hay chỉ tức đến tận cổ!
Những quy định mới về thuế ảnh hưởng đến hàng triệu người có hiệu lực từ hôm nay
Hôm nay (5/12), Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 chính thức có hiệu lực. Trước nhiều tranh luận, thắc mắc về những chính sách thuế mới, Bộ Tài chính cho biết sẽ sớm ban hành thông tư hướng dẫn.
Nghị định 126/2020/NĐ-CP cụ thể hoá một số điều của Luật Quản lý thuế (ngoại trừ nội dung về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, áp dụng hoá đơn, chứng từ, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế và hoá đơn, hải quan) gồm 9 chương, 44 điều.
Một số điểm mới, như:
1. Về việc khai thuế GTGT đối với doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh giữa tổ chức và cá nhân
Tại điểm c khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126 quy định: Tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân thì cá nhân không trực tiếp khai thuế. Tổ chức có trách nhiệm khai thuế giá trị gia tăng đối với toàn bộ doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế và quản lý thuế của tổ chức mà không phân biệt hình thức phân chia kết quả hợp tác kinh doanh, đồng thời khai thay và nộp thay thuế thu nhập cá nhân cho cá nhân hợp tác kinh doanh. Trường hợp tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo quy định tại khoản 5 Điều 51 Luật Quản lý thuế, mà cá nhân có ngành nghề đang hoạt động cùng với ngành nghề hợp tác kinh doanh với tổ chức thì tổ chức và cá nhân tự thực hiện khai thuế tương ứng với kết quả thực tế hợp tác kinh doanh theo quy định.
2. Về khai thuế, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán
Tại điểm d khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126 quy định: Tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán; cá nhân được ghi nhận phần vốn tăng thêm do lợi tức ghi tăng vốn; cá nhân góp vốn bằng bất động sản, phần vốn góp, chứng khoán. Thời điểm khai thuế thay và nộp thuế thay được thực hiện khi cá nhân phát sinh chuyển nhượng chứng khoán cùng loại, chuyển nhượng vốn, rút vốn.
Cụ thể như sau: Đối với cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán thì tổ chức có trách nhiệm khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi cá nhân chuyển nhượng chứng khoán cùng loại...
Như vậy, Nghị định số 126 quy định chỉ thay đổi chủ thể khai, và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) (từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn). Thay vì cá nhân tự khai thì quy định tổ chức có trách nhiệm khai thay, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán, cá nhân được ghi nhận phần vốn tăng thêm do lợi tức ghi tăng vốn.
3. Về tạm nộp thuế TNDN 3 quý
Luật Quản lý thuế số 38 có quy định đối với thuế TNDN, doanh nghiệp thực hiện tạm nộp theo quý và quyết toán thuế theo năm.
Nghị định số 126 sửa đổi quy định về nghĩa vụ tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý, cụ thể tại điểm b khoản 6 Điều 8 Nghị định số 126 quy định: Tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp đã tạm nộp của 03 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán năm. Trường hợp người nộp thuế nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 03 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 03 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
4. Về phân bổ nghĩa vụ thuế đối với trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính nhưng có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính
Khoản 3 Điều 42 Luật quản lý thuế số 38 quy định: Người nộp thuế thực hiện khai thuế, tính thuế tại cơ quan thuế địa phương có thẩm quyền nơi có trụ sở. Trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính, có đơn vị phụ thuộc tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì người nộp thuế khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết khoản này.
Để đảm bảo cơ sở cho việc thực hiện phân bổ nghĩa vụ thuế theo quy định tại khoản 3 Điêu 42 Luật Quản lý thuế số 38, Nghị định số 126 quy định về khai thuế trong trường hợp này như sau: Người nộp thuế khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu NSNN (Khoản 2 Điều 11). Tuy nhiên, Nghị định số 126 có quy định nội dung khai thuế này sẽ được thực hiện cho năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách tiếp theo kể từ khi Luật quản lý thuế số 38 và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực thi hành (khoản 3 Điều 43).
5. Về trách nhiệm của ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng của người nộp thuế (NNT) và khấu trừ nộp thay nghĩa vụ thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử tại Việt Nam
Luật Quản lý thuế số 38 (khoản 2, khoản 3 Điều 27) có quy định về trách nhiệm của NTHM, trong việc cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi mở tài khoản và khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.
Căn cứ theo quy định tại Luật Quản lý thuế, Nghị định số 126 (Khoản 2, Khoản 3 Điều 30) có quy định: Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế... Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam...
Về quy định này, Tổng cục Thuế cho biết, việc cung cấp thông tin không gây ảnh hưởng cho khách hàng, hay lo ngại làm khó cho ngân hàng. Vì Tổng cục Thuế có thông tư hướng dẫn theo cơ sở dữ liệu cho ngân hàng, đồng thời hoàn toàn bảo mật thông tin NNT và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Việc yêu cầu cung cấp tài khoản ngân hàng chủ yếu nhằm quản lý các giao dịch qua mạng từ Facebook, Google, Youtube không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân trong nước...
Thuế cổ tức bằng cổ phiếu: Nhà đầu tư thiệt, công ty chứng khoán rối việc Theo quy định tại Nghị định 126/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 5/12/2020, nhà đầu tư bán chứng khoán được chia thưởng, được trả cổ tức sẽ bị khấu trừ 5% thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập 5% đánh trên cổ tức bằng cổ phiếu đang gây nhiều tranh luận trái...