Đánh “Rồng” từ…dưới biển – Kỳ 2: Kịch bản tấn công phong tỏa Trung Quốc
Nếu xung đột đột giữa Mỹ và Trung Quốc xảy ra, chiến lược mới của Washington về mặt cơ học sẽ phải bảo đảm việc chặn tất cả các tuyến đường giao thông, kể cả dân sự và quân sự của Bắc Kinh, mà trước tiên là sử dụng các tàu ngầm cùng với hệ thống không người lái phóng ngư lôi phong tỏa bờ biển của Trung Quốc.
Điều này được kết hợp với việc mở rộng các công cụ pháp lý và tài chính để ngăn chặn sự lưu thông thương mại bằng đường không và đường biển. Mục đích của các hoạt động này là tạo ra sự biến động về kinh tế và thúc đẩy sự bất ổn về chính trị bên trong đại lục.
Trong khi một số nhà hoạch định chính sách quân sự của Mỹ đồng tình với chiến thuật “Kiểm soát ngoài khơi” của Đại tá Thủy quân Lục chiến về hưu T.X. Hammes thì một số khác lại ủng hộ Chiến lược Tác chiến Không -Biển (ví dụ như như Elbridge Colby, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Phân tích Hải quân Mỹ). Chiến lược mới được đề xuất ở đây chính là sự kết hợp của 2 khái niệm trên: Chiến lược tấn công phong tỏa hay còn gọi là chiến lược răn đe từ dưới biển, kết hợp với việc ngăn chặn và đóng cửa các tuyến đường thương mại của Trung Quốc. Chiến lược này một phần giống như chiến lược Kiểm soát ngoài khơi, nhưng phạm vi hoạt động của nó là ở trong và gần những cảng biển của Trung Quốc, nơi thuận lợi cho việc tấn công bằng ngư lôi. Nó được thực hiện chủ yếu bởi các loại vũ khí tấn công dưới mặt nước kết hợp với vũ khí “kinh tế” nhằm tránh sự đổ máu của cả hai bên, điều có thể làm bùng lên chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc.
Lợi thế của chiến lược này là làm tăng sự răn đe thông thường, xác suất thành công khá cao và rất đáng tin cậy, bởi vì với phương pháp gián tiếp này sẽ ít tốn kém hơn về chi phí quân sự trong khi bản chất của tác chiến tàu ngầm và ngư lôi là phong tỏa đối phương. Ngoài ra, hậu quả về mặt chính trị sẽ thấp hơn so với việc sử dụng chiến thuật ném bom vào các mục tiêu bên trong lãnh thổ Trung Quốc hay bắn hạ hàng trăm phi công của Bắc Kinh, sẽ khiến nhiều dân thường bị thiệt mạng, cơ sở hạ tầng bị phá hủy…
Một lợi thế khác của chiến lược tấn công phong tỏa dưới biển là nó ít bị ảnh hưởng bởi hệ thống tác chiến điện tử của Trung Quốc hơn là một cuộc tấn công từ trên bộ hoặc trên không. Biển sẽ như một “chiếc áo giáp” bảo vệ và hạn chế tối đa khả năng tấn công của các tên lửa đạn đạo chống hạm như DF-21D vốn được coi là “sát thủ tàu sân bay”. Nói chung, trong điều kiện chiến tranh ở Tây Thái Bình Dương, nơi an toàn nhất sẽ là dưới lòng biển – không phải ở trên mặt nước hay ở trên không. Minh chứng cụ thể cho lợi thế này thể hiện rõ nhất trong cuộc xung đột ở Falklands năm 1982 giữa Vương quốc Anh và Argentina. Người Anh đã đúc kết ra rằng cuộc đối đầu giữa hai lực lượng hải quân hiện đại trên mặt nước thường tổn thất nhân mạng nhiều hơn so với dự kiến ban đầu. Và sau hơn 30 năm, các loại vũ khí đã được hiện đại hóa với khả năng sát thương cao hơn rất nhiều so với trước đây.
Theo chiến thuật mới này, ngay khi bắt đầu xảy ra cuộc chiến, Mỹ sẽ tuyên bố vùng đặc quyền hàng hải mở rộng ít nhất 200 dặm ngoài khơi bờ biển Trung Quốc và xung quanh vùng lãnh thổ Đài Loan. Bất kỳ tàu thuyền nào đi vào khu vực này sẽ bị giam giữ, thậm chí bị đánh chìm, nếu có hành động chống đối hoặc đơn giản là vi phạm vùng đặc quyền. Điều này cũng tương tự như những gì người Anh đã làm trong chiến dịch Falklands và đã phát huy hiệu quả.
Video đang HOT
Thứ hai, Mỹ sẽ sử dụng các tàu ngầm, máy bay ném bom tàng hình tầm xa hoặc máy bay không người lái tấn công bằng cách phóng/thả mìn, ngư lôi để phong tỏa các vùng biển gần của Trung Quốc, đặc biệt là các cảng biển, các tuyến đường thương mại huyết mạch. Tất cả các tàu thương nhân sẽ được khuyến cáo không nên rời khỏi bất kỳ cảng nào của Trung Quốc cho đến khi một tuyến đường an toàn vừa đủ hẹp được thiết lập để các tàu này thoát ra ngoài.
Trung Quốc thậm chí sẽ không biết được mức độ của các hoạt động phong tỏa vì nó được thực hiện ngầm dưới biển. Một lợi thế của chiến tranh dưới biển là tạo ra mối đe dọa lớn nhưng rất khó khăn để các lực lượng phòng vệ phát hiện vì không thể quan sát được các hoạt động này. Đơn giản là, chỉ cần một chiếc thuyền nhỏ đi qua các khu vực có bãi mìn, ngư lôi, nó có thể bị đánh chìm ngay lập tức. Kết quả là các tàu chiến hay bất cứ lực lượng phòng vệ nào khác khi hoạt động trên biển cũng sẽ phải hết sức dè chừng, di chuyển chậm chạp. Giảm tốc độ cơ động của đối phương cũng là một nhân tố quan trọng trong chiến tranh.
Thứ ba, chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố rằng tổ chức tài chính và các tòa án Mỹ có thể không thi hành hoặc chi trả bất kỳ yêu cầu bảo hiểm, tín dụng, hoặc công cụ tài chính tương tự cho các tàu thương mại đã được đánh giá theo quyết định riêng của Washington, như là hoạt động trong vùng đặc quyền hoặc với mục đích kinh doanh, trao đổi khác với Bắc Kinh. Giới phân tích quân sự hầu như luôn đánh giá thấp sức mạnh của các công cụ tài chính hoặc pháp lý của Mỹ trong việc thay đổi, hoặc thậm chí ngăn chặn các hoạt động thông thương hàng hải. Nó sẽ là một vũ khí rất có hiệu quả khi áp dụng với Trung Quốc. Mỹ cần phải sử dụng sứ mạnh “bá chủ” về tài chính trên toàn cầu của mình để tăng cường chiến lược răn đe quân sự.
Sự đánh giá một cách tương đối về điểm mạnh và điểm yếu của cả Mỹ và Trung Quốc, đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế và chính trị cho thấy: chiến lược răn đe thông thường nên tập trung vào việc khiến cho các lãnh đạo của Trung Quốc cảm giác rằng một cuộc chiến tranh là rất nguy hiểm. Gót chân Achilles chính trị của Bắc Kinh là nỗi sợ hãi về cuộc nổi loạn lan rộng với bạo lực leo thang trong khi nền kinh tế bị sụp đổ. Gót chân Achilles quân sự của Bắc Kinh chính là khả năng tác chiến mìn, ngư lôi và khả năng chống ngầm hạn chế. Điểm yếu về kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào ngoại thương, và quyền bá chủ về pháp lý cũng như tài chính Mỹ. Những điểm yếu nghiêm trọng này là điều có thể giúp Washington triển khai và phát huy chiến lược răn đe từ dưới biển.
Kỳ cuối: Thủ đoạn thực hiện chiến lược răn đe từ dưới biển
Theo Công Thuận
Baotintuc.vn/USNI
Thủ đoạn thực hiện chiến lược răn đe từ dưới biển
Để triển khai chiến lược răn đe từ dưới biển, theo Victor L. Vescovo, sĩ quan tình báo hải quân Mỹ đã về hưu đồng thời là tác giả bài viết, Lầu Năm Góc cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, truyền đạt rõ ràng chiến lược này cho đối phương. Bản chất của sự răn đe là làm cho đối phương hiểu được chiến lược trên của Mỹ thực sự hiệu quả, đáng tin cậy và khó có thể bị đánh bại. Trung Quốc sẽ vẫn thực hiện những hành động phiêu lưu quân sự nếu như biết Mỹ không có một chiến lược và chính sách thực sự nào đối phó với mình.
Thứ hai, tăng cường năng lực chiến tranh dưới biển của Hải quân Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực tác chiến tấn công bằng mìn, ngư lôi. Đây là hình tức tấn công hiệu quả nhất đối với lực lượng hải quân và đã được chứng minh trong lịch sử, nhưng quân đội Mỹ đã lơ là trong nhiều năm qua khi chỉ dành 1% ngân sách quốc phòng để đầu tư và phát triển. Ví dụ những quả mìn giống như ngư lôi có lớp bảo vệ bên ngoài (CAPTOR) có khả năng neo đậu dưới đáy đại dương, kiên nhẫn chờ đợi, và đột nhiên tung ra một cú đánh với sức mạnh khủng khiếp.
Ngư lôi CAPTOR chống tàu ngầm của Mỹ. Ảnh: USNI
Những tiến bộ về các loại vũ khí thông minh hiện vẫn chưa được áp dụng cho chiến tranh tấn công ngầm. Nếu được thực hiện, những quả ngư lôi hiện đại có thể triển khai độc lập với tàu ngầm, được trang bị các thiết bị tàng hình, sử dụng cảm biến để xác định mục tiêu và thậm chí chúng có thể "giao tiếp" với nhau trong một khoảng cách ngắn. Các quả mìn, ngư lôi kiểu như Captor đã được Lầu Năm Góc phát triển từ năm 1979- cách đây đúng 35 năm.
Thứ ba, tàu ngầm năng lượng hạt nhân trang bị tên lửa dẫn đường lớp Ohio luôn mang theo ít nhất 150 quả ngư lôi. Tàu ngầm này có khả năng triển khai từ xa hơn 75 quả ngư lôi đầy uy lực vào bên trong các cảng biển của đối phương với khả năng tàng hình cao, đặc biệt là những quả ngư lôi CAPTOR và mìn cơ động Mk-67 đã được cải tiến có kích thước bằng tên lửa hành trình Tomahawk.
Trong thời gian khủng hoảng, Mỹ có thể 'đánh tiếng" báo hiệu cho đối phương biết rằng ít nhất 2 hoặc 3 tàu ngầm loại trên đã hiện diện tại khu vực xung đột. Không giống như sự xuất hiện của tàu sân bay, lãnh đạo Trung Quốc sẽ không biết đó là thật hay giả, như vậy khả năng răn đe được tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, Mỹ cần có sự đầu tư vào tên lửa hành trình cùng với các loại ngư lôi "phá hoại". Những loại ngư lôi này đe dọa nghiêm trọng đối với các khu vực có giá trị chiến lược cao và được bảo vệ chắc chắn như các cảng biển mà không gây ra những tác động lớn hoặc gây tổn hại về mặt chính trị.
Đồng thời, hải quân Mỹ phải thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập chiến thuật tấn công dưới biển. Các phi đội máy bay không người lái và máy bay ném bom hạng nặng cũng nên tham gia vào các cuộc diễn tập này, trong điều kiện ban đêm và ở tầm thấp. Các tàu ngầm tấn công thường xuyên luyện tập các hoạt động tác chiến phóng ngư lôi từ xa, ở vùng nước nông. Bất kể các hoạt động huấn luyện trên được giữ bí mật thế nào, tình báo Trung Quốc cuối cùng cũng sẽ phát hiện được và như thế, các cuộc diễn tập sẽ củng cố thêm sự răn đe bởi vì nó xác nhận rằng chiến lược của Mỹ là thực sự chứ không phải nói suông. Nếu không, sự răn đe sẽ bị suy yếu.
Theo Vescovo, chiến lược răn đe từ dưới biển có thể tác động ngay lập tức và tạo ra sự đe dọa đối với các nhà lãnh đạo tại Bắc Kinh. Nếu không có thương mại hàng hải, kinh tế của Trung Quốc sẽ sụp đổ. Bắc Kinh sẽ không duy trì được sự ổn định chính trị nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng, mức sống giảm, thiếu nhiên liệu, đặc biệt là ở khu vực ven biển giàu có của nước này - nơi có thể sẽ chịu ảnh hưởng nặng nhất bởi chiến lược phong tỏa trên.
Nhiều nhà lãnh đạo quân sự thường vận dụng chiến lược quân sự trong "Binh pháp Tôn Tử" của Trung Quốc, nhưng lại thường xuyên bỏ qua bài học quan trọng nhất: Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự là chiến thắng mà không cần chiến đấu. Dọc theo bờ Thái Bình Dương, Mỹ đã đạt được gần như tất cả các mục tiêu chiến lược của mình: Tự do đi lại trên các vùng biển, kiềm chế các quốc gia "nguy hiểm" như Triều Tiên, có một loạt các đồng minh và căn cứ quân sự trong khu vực. Vì vậy, chiến thắng đối với Washington trong tương lai gần chỉ đơn giản là ngăn chặn bất kỳ cuộc xung đột lớn nào nổ ra, đặc biệt là với Trung Quốc.
Chiến lược gây tổn hại cho nền kinh tế Trung Quốc có lẽ là biện pháp hiệu quả nhất nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động phiêu lưu quân sự nào của lãnh đạo Trung Quốc. Nó cũng có lợi thế lớn trong việc tránh được những thiệt hại tiềm năng của tàu sân bay Mỹ, các lực lượng không quân chiến thuật và thậm chí là lực lượng tác chiến mạng. Chiến lược răn đe từ dưới biển không phụ thuộc vào các lực lượng này. Nó cũng là chiến lược hạn chế bạo lực tối thiểu ở chỗ chỉ tấn công những tàu có lựa chọn và các ngư lôi có thể được lập trình để kích nổ hoặc tự hủy với mã cảm biến thích hợp, giống như hệ thống SPIDER của Lầu Năm Góc, sau một khoảng thời gian được thiết lập.
Ông Vescovo nhận định rằng chiến lược răn đe trên của Mỹ sẽ khiến lãnh đạo của Trung Quốc phải cân nhắc kỹ càng trước khi có ý định thực hiện bất kỳ hành động phiêu lưu quân sự nào. Do đó, nó góp phần củng cố nền "hòa bình kiểu Mỹ" và chế ngự được "tính bốc đồng" của "con rồng" Trung Quốc.
Theo Công Thuận
Baotintuc.vn/USNI
Đánh "Rồng" từ... dưới biển Nếu muốn ngăn chặn và kiềm chế Trung Quốc, không cho nước này thể hiện sức mạnh cơ bắp quân sự và thay đổi hiện trạng trong khu vực, Mỹ cần phải xây dựng và thực hiện chiến lược tấn công từ dưới biển một cách hiệu quả. Kỳ 1: "Tử huyệt" của Trung Quốc Có thể hy vọng rằng Trung Quốc và...