Dân số Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức
Cả nước hiện có hơn 96,2 triệu người. Đến năm 2029 sẽ tăng lên 105 triệu người và đến năm 2034, Việt Nam sẽ chấm dứt thời kỳ dân số vàng bởi có khoảng 15% dân số trên 65 tuổi.
Điều dưỡng Bệnh viện Đa khoa khu vực Long Thành hướng dẫn sản phụ mới sinh cách cho trẻ bú sữa mẹ. Ảnh: H.Dung
Đó là dự báo được Tổng cục Thống kê (Bộ KH-ĐT) đưa ra tại hội nghị công bố kết quả nghiên cứu chuyên sâu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 mới đây. Qua đó, cho thấy dân số Việt Nam đang và sẽ đối mặt với nhiều thách thức.
* Quá trình già hóa dân số nhanh
Nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội Nguyễn Đình Cử cho biết, cơ cấu dân số vàng tại Việt Nam bắt đầu từ năm 2007. Tức là tỷ lệ trẻ em từ 0-14 tuổi nhỏ hơn 30% tổng dân số và số người trên 65 tuổi nhỏ hơn 15%. Dân số già diễn ra khi số người trên 65 tuổi chiếm hơn 15%.
Những năm qua, nhắc đến công tác dân số là nhắc đến việc giảm sinh và kế hoạch hóa gia đình. Cách nghĩ này đã ăn sâu vào nhiều gia đình, nhiều thế hệ dẫn đến tỷ lệ sinh giảm và có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương, vùng miền trong cả nước. Nếu như cách đây 40 năm, tỷ lệ sinh thay thế của Việt Nam là 3,5 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thì đến năm 2019 chỉ còn 2,09 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Bên cạnh đó, số lượng người già tăng cao (cả nước hiện có 11,4 triệu người trên 60 tuổi) dẫn đến tốc độ già hóa dân số ở Việt Nam khá nhanh.
Các chuyên gia nhận định, nếu không có những giải pháp khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, quy mô dân số già sẽ ảnh hưởng đến lực lượng và chất lượng nguồn lao động. Mặt khác, khi mỗi gia đình chỉ có ít con mà phải chăm sóc nhiều người già, tỷ lệ người già sống bằng các nguồn lực an sinh xã hội không nhiều sẽ tạo áp lực không nhỏ lên bản thân mỗi gia đình và toàn xã hội.
Tại Đồng Nai, kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy, toàn tỉnh hiện có hơn 3,2 triệu người. Mức sinh thay thế đạt 1,9 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, là một trong số những địa phương có mức sinh thấp (mức sinh thay thế đạt chuẩn là 2,1 con/phụ nữ).
Ngoài ra, toàn tỉnh hiện có gần 28 vạn người cao tuổi cũng đặt ra áp lực khá lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Đó là chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh cho người cao tuổi; các hoạt động an sinh xã hội, vui chơi giải trí, chăm sóc người cao tuổi ở địa phương và những cơ sở chăm sóc tập trung…
Video đang HOT
BS CKII Lê Phương Lan, Chi cục trưởng Chi cục Dân số – kế hoạch hóa gia đình tỉnh cho hay, bài học kinh nghiệm ở các quốc gia như: Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản cho thấy, khi mức sinh có xu hướng giảm cần sớm có các biện pháp can thiệp phù hợp, không để mức sinh xuống quá thấp. Bởi khi đó, việc can thiệp sẽ tốn rất nhiều kinh phí mà hiệu quả không cao.
* Mất cân bằng giới tính ở mức cao
Cũng theo dự báo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2034, cả nước sẽ có khoảng 1,5 triệu nam giới không được kết hôn do thiếu nữ.
Tỷ số giới tính khi sinh năm 2019 của cả nước là 111,5 bé trai/100 bé gái. Số liệu này cho thấy mức độ mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta đang ở mức rất cao, bởi tỷ số giới tính khi sinh theo tự nhiên là 105 bé trai/100 bé gái. Tại Đồng Nai, mặc dù tỷ lệ bé trai/bé gái giảm so với tỷ lệ chung của cả nước là 107-109 bé trai/100 bé gái, song theo dự báo, tỷ lệ bé trai có thể tăng lên trong những năm tới.
Ông Nguyễn Đình Cử cho rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bé trai/bé gái tăng cao ở Việt Nam trong những năm gần đây. Trong đó phải kể đến tâm lý còn trọng con trai ở nhiều cặp vợ chồng. Ngoài ra, cũng có nhiều bằng chứng cho thấy có sự can thiệp lựa chọn giới tính khi sinh. Do đó, cần có khung pháp lý chặt chẽ hơn để ngăn chặn việc lựa chọn giới tính thai nhi, nhằm đưa tỷ số giới tính khi sinh về với mức tự nhiên.
Để hạn chế tình trạng dân số già, ông Nguyễn Đình Cử nhấn mạnh, Nhà nước cần sớm xây dựng chính sách khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con và tạo điều kiện tốt để họ nuôi dạy con. Bởi thống kê cho thấy, mức sinh thấp hiện nay diễn ra ở các tỉnh Đông Nam bộ, đặc biệt là khu vực thành thị. Nhiều cặp vợ chồng e ngại sinh thêm con vì chi phí để nuôi dạy một đứa trẻ như: ăn ở, giáo dục, y tế, văn hóa, giải trí… hiện nay khá cao.
'Việt Nam cần chuẩn bị thích ứng với thời kỳ dân số già'
PGS.TS Giang Thanh Long, Viện trưởng Chính sách công và Quản lý (ĐH Kinh tế quốc dân) trả lời VnExpress về thách thức khi Việt Nam bước vào thời kỳ dân số già.
- Ông đánh giá thế nào về thực trạng già hóa dân số ở Việt Nam?
- Cơ cấu dân số vàng là trẻ em (0-14 tuổi) nhỏ hơn 30%, người trên 65 tuổi nhỏ hơn 15% tổng dân số. Dân số già khi số người trên 65 tuổi chiếm hơn 10%; dân số rất già khi người trên 65 tuổi chiếm hơn 20%; dân số siêu già khi người trên 65 tuổi chiếm hơn 30%.
Ở Việt Nam, quá trình già hóa dân số (khi tỷ lệ người già trong cơ cấu dân số tăng nhanh) bắt đầu từ cuối những năm 1980, sau 5 thập kỷ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, cả nước đã thành công trong mục tiêu giảm sinh. Nếu năm 1979, trung bình một phụ nữ có 3,5 con, nhưng sau 10 năm chỉ còn 2,6. Đến năm 2019, tổng tỷ suất sinh (số con của một phụ nữ) chỉ còn 2,09, thấp hơn mức sinh thay thế là 2,1 (trung bình mỗi phụ nữ có 2,1 con).
Tuổi thọ của người Việt Nam những năm gần đây được cải thiện rất nhanh, nên số người cao tuổi tăng nhanh. Là nước thu nhập trung bình thấp nhưng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam gần 74.
Trong 10 năm qua, dân số cả nước tăng 11 triệu thì đồng thời số người già cũng tăng gần 4 triệu. Đây là mức tăng dân số già rất cao so với các nước trong khu vực, gần bằng Thái Lan. Cả nước hiện có 11,4 triệu người hơn 60 tuổi, chiếm gần 12% dân số. Chỉ số già hóa tăng từ 36% năm 2009 lên gần 49% năm 2019.
Từ năm 2026, tỷ trọng người trên 65 tuổi sẽ chiếm hơn 10%, Việt Nam chấm dứt cơ cấu dân số vàng tồn tại từ năm 2007 và bước vào thời kỳ dân số già. Đến năm 2039, số người hơn 65 tuổi sẽ chiếm hơn 15% tổng dân số và kéo dài đến năm 2054. Từ năm 2054 là dân số rất già.
- Dân số già ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước?
- Hiện Việt Nam mới là nước có thu nhập trung bình thấp nên dân số già hóa nhanh là thách thức rất lớn nếu không duy trì được tăng trưởng và tăng thu nhập bình quân.
Một thách thức nữa là tuổi thọ trung bình cao nhưng chỉ số tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam còn thấp, số năm ốm đau, bệnh tật nhiều. Tuổi thọ trung bình người Việt Nam cao bằng Thái Lan, Malaysia, nhưng số năm ốm đau trung bình của một người thì nhiều hơn. Chúng ta sống thọ nhưng không khỏe.
Thu nhập chủ yếu của người già ở Việt Nam hiện nay phần lớn dựa vào sức lao động của họ (30%), dựa vào con cháu (30%). Số người sống bằng các nguồn lực an sinh xã hội như lương hưu, bảo hiểm xã hội... chỉ chiếm 20%. Đây là nguy cơ khi bước vào thời kỳ dân số già, số con trong các gia đình ít, nhưng phải chăm sóc nhiều người già. Nếu trước đây mỗi gia đình thường ba, bốn người con chăm sóc bố mẹ thì với xu hướng sinh ít con như hiện nay, sau này mỗi gia đình sẽ chỉ có một, hai người con chăm sóc bố mẹ. Đây là gánh nặng không nhỏ với những người trẻ, cũng đồng thời là lực lượng lao động chính của xã hội.
Thực trạng này đã xảy ra ở Trung Quốc, khi thực thi chính sách mỗi gia đình chỉ một con, thì cả gia đình gồm ông bà nội, ông bà ngoại, hai vợ chồng chăm một người con. Nhưng sau vài chục năm, đến lúc người con trưởng thành thì phải một mình lo toan cho năm, sáu người già. Đây là bài học cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Tôi cũng lo ngại thực trạng dân số già nhanh nhưng không khỏe. Dẫn chứng là số người mắc các bệnh không lây nhiễm như tim mạch, xương khớp, tiểu đường... ngày càng phổ biến. Những bệnh này sẽ đeo bám cả đời, dẫn đến chi phí lớn khi dân số già nhanh, tạo nên gánh nặng về bệnh tật cho xã hội.
PGS. TS Giang Thanh Long. Ảnh: VT
- Kinh nghiệm của các nước trên thế giới thích ứng tốt với thời kỳ già hóa dân số như thế nào, thưa ông?
- Nhiều nước dân số rất già nhưng vẫn nằm trong top những nước phát triển, có thu nhập cao là Nhật Bản, Hàn Quốc. Đặc biệt, Hàn Quốc đang dẫn đầu thế giới về việc áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến để chăm sóc người cao tuổi, để bù đắp tỷ suất sinh rất thấp ở nước này (dưới 1).
Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan đã sớm nhận ra những thách thức và từ nhiều năm nay đã chủ động xây dựng các chính sách thích ứng với dân số già. Đầu tiên, Chính phủ lập các hồ sơ quản lý bệnh không lây nhiễm phổ biến ở người già vào các cơ sở y tế trên cả nước, từ lúc công dân còn trẻ. Hồ sơ sức khỏe của từng người được cập nhật vào hệ thống, theo dõi các bệnh về xương khớp, tiểu đường, tim mạch... Chính phủ mở rộng tầm bao phủ của bảo hiểm y tế, bắt buộc mọi người dân tham gia. Những người khó khăn, khu vực lao động không chính thức được Chính phủ hỗ trợ. Nhà chức trách nước này cũng yêu cầu người lao động gồm cả khu vực chính thức và không chính thức tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội.
Tại Nhật Bản, năm 1989, Bộ Y tế phúc lợi ban hành chính sách 80-20 nghĩa là khi công dân sống đến 80 tuổi vẫn giữ được 20 chiếc răng khỏe mạnh. Khi còn 2/3 hàm răng khỏe mạnh thì người đó sẽ nhai tốt, tiêu hóa tốt, dẫn đến không bị nhiều bệnh liên quan đến tiêu hóa, dạ dày. Hơn nữa, răng miệng tốt sẽ giúp người già khỏe mạnh cả về thể chất và khả năng giao tiếp xã hội, bởi nếu răng miệng có mùi họ sẽ ngại giao tiếp, ảnh hưởng về tinh thần lớn. Khi đề ra chính sách này, nhà chức trách Nhật Bản thống kê cả nước chỉ có 7% người trên 80 tuổi còn 20 răng tốt. Tuy nhiên, đến năm 2019, kỷ niệm 30 năm chính sách này ra đời, cả nước có 55% người cao tuổi có 20 răng tốt. Vì vậy, Nhật Bản là nước có dân số sống thọ và khỏe mạnh, ít bệnh tật.
Đây là những bài học cho Việt Nam chuẩn bị để bước vào thời kỳ dân số già.
- Việt Nam cần chuẩn bị gì để thích ứng với dân số già?
- Dân số già vừa là thách thức vừa là cơ hội. Nếu muốn thích ứng tốt, Chính phủ cần có những chính sách ở tầm vĩ mô ngay từ bây giờ. Trước hết là chuẩn bị về kinh tế. Việt Nam đang là nước thu nhập trung bình thấp nên sau hơn 30 năm nữa, dân số siêu già dễ gặp thách thức là lương hưu thấp, thậm chí nhiều người già không có lương bởi khi còn trẻ không tham gia bảo hiểm xã hội. Hiện tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội mới đạt 26% dân số. Có thực trạng là nhiều người trẻ hiện nay lạm dụng rượu bia, chất kích thích, ít vận động... nên khi về già sẽ là hệ lụy nặng nề cho xã hội về mặt y tế.
Vì vậy, nhà chức trách cần có chính sách khuyến khích người dân trong độ tuổi lao động hiện nay tăng năng suất, chuẩn bị tốt về nguồn lực kinh tế, để có tích lũy về già và có ý thức giữ gìn sức khỏe. Những người trong độ tuổi lao động hiện nay, nhất là khu vực không chính thức cần được hỗ trợ tham gia bảo hiểm xã hội để khi về già có thể tự lo được cho bản thân, thay vì phải trông chờ vào con cháu hoặc các chính sách phúc lợi từ Chính phủ.
Trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị cho thời kỳ dân số già. Hệ thống bảo hiểm xã hội được cải cách, thu hút nhiều người tham gia. Đây là chính sách quan trọng đảm bảo thu nhập và lương hưu cho người già sau này. Một số bệnh thường xảy ra ở người già như huyết áp đã được đưa vào hệ thống quản lý đến y tế tuyến xã.
Tốc độ già hóa dân số nhanh khiến lực lượng lao động ngày càng thu hẹp. Khi lực lượng lao động quá ít sẽ gây áp lực rất lớn về tạo thu nhập cho xã hội, đóng góp cho các nguồn lực an sinh. Nguy cơ thiếu hụt lao động trong tương lai sẽ không chỉ xảy ra tại Việt Nam mà còn ở nhiều nước. Tuy nhiên, các nước phát triển trong khu vực như Nhật Bản, Singapore... có điều kiện tốt về thu nhập, cơ sở vật chất để thu hút những lao động chất lượng cao từ các nước, trong đó có Việt Nam. Đây cũng là nguy cơ cần được tính đến để xây dựng chính sách nâng cao tay nghề, năng suất và điều kiện cho người lao động.
Để hạn chế tốc độ già hóa dân số, nhà chức trách cần xây dựng chính sách để các cặp vợ chồng yên tâm sinh con và nuôi con. Bởi hiện nay, nhiều gia đình, nhất là ở các đô thị lớn có xu hướng sinh ít con. Nguyên nhân chủ yếu là chi phí nuôi con rất tốn kém, gồm giáo dục, y tế, nhà ở, nghỉ ngơi, vui chơi... Thiết kế các chính sách giảm chi phí nuôi con là cách để khuyến khích sinh con.
Thúc đẩy bình đẳng giới, góp phần giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh Sáng 7/10, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo công tác dân số - Kế hoạch hóa gia đình quận Hai Bà Trưng đã tổ chức Điểm truyền thông hưởng ứng ngày quốc tế trẻ em gái 10/10 với chủ đề "Thúc đẩy bình đẳng giới, góp phần giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh". Quang cảnh điểm truyền thông hưởng ứng...