Đại chiến không hồi kết của làng ẩm thực: Một mảnh bánh bé xíu mà 3 cường quốc thi nhau giành bản quyền
Hay còn gọi là hành trình gian nan đi tìm “quốc tịch” cho chiếc bánh fortune cookie có xuất xứ Nhật, được người Trung quảng cáo và bán chạy tại Mỹ.
Số phận của fortune cookies ( bánh may mắn) vẫn là một bí ẩn khi “có xuất xứ từ Nhật Bản, được ngưởi Trung Quốc quảng cáo, nhưng cuối cùng bán chạy ở Mỹ”.
Khi đi ăn dimsum, đặc biệt là các nhà hàng tại Bắc Mỹ, người ta thường thấy sự xuất hiện của chiếc bánh quy nho nhỏ có mẩu giấy bên trong. Nội dung thường là những lời chúc tích cực, những tuyên ngôn truyền cảm hứng hoặc một dãy số may mắn để người ăn đem đi… mua sổ xố.
Fortune cookies hay còn gọi là bánh may mắn.
Dù chưa có trường hợp đáng nói nào “đỏ” vận nhờ bánh may mắn, nhưng fortune cookies vẫn nổi tiếng dần đều và vươn lên hàng biểu tượng trong văn hóa ẩm thực lẫn đại chúng. Hơn cả một món ăn, fortune cookies là phản ánh của phương Đông huyền bí trong mắt người phương Tây, khi một mẩu bánh bé nhỏ cũng có thể thay đổi cuộc đời bạn.
Fortune cookies là yếu tố then chốt trong bộ phim teen đình đám một thời – Freaky Friday. Hai mẹ con nhận một chiếc bánh may mắn từ bà chủ nhà hàng Tàu và mọi rắc rối bắt đầu từ đó.
Món Trung Hoa, Nhật hay Tây?
Dù thường xuyên xuất hiện trên bàn dimsum ở nước ngoài và gắn liền với những nhân vật Trung Quốc trong phim Mỹ, nhưng người Trung Quốc lại chả có tí khái niệm gì về fortune cookies cả. Mặt khác, người Nhật cũng thường xuyên nhắc nhở hai ông lớn kia: Bánh may mắn xuất hiện từ nước tôi năm 1878 kìa!
Vậy là, fortune cookies có số phận bảy nổi ba chìm nhất làng ẩm thực khi mang một nguồn gốc mập mờ, đến giờ vẫn bị ba quốc gia… giành qua giành lại.
Video đang HOT
Fortune cookies thường xuất hiện trong nhiều nhà hàng Trung Quốc tại Mỹ.
Theo như người Trung Quốc, dù họ không ăn bánh may mắn với dimsum hay trà, thì tổ tiên họ cũng có công nghĩ ra concept này từ tận thế kỉ 13 – 14. Những chiếc bánh nướng có chứa mẩu giấy truyền tin bên trong đã xuất hiện trong quân đội nhà Minh, hoạt động như phương thức tình báo cao cấp trong cuộc chiến với quân Mông Cổ. Thể theo luật bản quyền, ai nghĩ ra đầu tiên thì người ấy thắng.
Ngay lúc này, người Mỹ nhảy vào cãi: các ông có công nghĩ ra ý tưởng, nhưng chúng tôi có công quảng cáo ra toàn thế giới. Quả thực, nếu không phải vì cuộc Thế chiến thứ II kéo theo một bộ phận Hoa kiều khổng lồ ở Mỹ, bánh may mắn sẽ rơi vào quên lãng.
Một nhà máy làm bánh may mắn ở San Francisco (Mỹ).
Fortunes cookies ra đời và lớn lên giữa nước Mỹ theo cách rất cảm động: Có giả thiết cho rằng, ngày xưa người Hoa có tục bỏ lời chúc may mắn vào bánh trái dịp năm mới. Saukhi sangMỹ rồi, không tìm đâu ra bánh truyền thống, họ mới bỏ giấy vào cookies để đỡ nhớ phong tục quê nhà. Cũng có người kể lại David Chung là cha đẻ chính thức của fortune cookies. Ông nghĩ ra chiếc bánh đầu tiên vào năm 1918, sau đó nhờ mục sư viết những lời chúc tích cực để vào trong bánh. Bánh được tặng cho các công nhân trong xưởng của ông, giúp họ bớt đói bụng lẫn lạnh lòng.
Giả mà người Mỹ chỉ dừng lại ở câu chuyện cảm động trên, mà không đề cập đến năm tháng, thì đối thủ nặng kí tiếp theo sẽ không nhảy vào. Với đầu óc lý tính chi ly số một thế giới, người Nhật đưa ngay dẫn chứng số liệu để dành fortune cookies về mình: Trong một bức tranh cổ từ năm 1878, hình ảnh khay bánh có hình dạng từa tựa fortune cookies đã xuất hiện.
Nhật bản có bằng chứng về một hình vẽ từ năm 1878 có hình một nghệ nhân làm bánh may mắn.
Bên cạnh đó, một người Nhật tại Mỹ cùng đã nghĩ ra cách bỏ giấy nhắn vào bánh. Ông tên Makoto Hagiwara – một nhân viên bình thường tại tiệm trà Nhật – bị đuổi việc bất công rồi may mắn được thị trưởng thu nhận lại. Để tỏ lòng biết ơn tới những người giúp đỡ mình lúc khốn khố, ông viết giấy nhắn cảm ơn rồi bỏ vào bánh quy, tặng cho họ. Đến những năm 1920 và 1930, fortunes cookies ngang nhiên xuất hiện trong thực đơn lẫn quảng cáo của những nhà hàng Nhật tại Mỹ.
Kết:
Nếu xét về mặt niên đại, người Trung Quốc đặt nền móng đầu tiên cho fortune cookies và người Nhật nhận “bằng sáng chế” chính thức từ năm 1878. Thế nhưng, điều hài hước là tại hai đất nước này, bánh may mắn lại là sáng tạo của nước ngoài. Nếu tới Trung Quốc mà hỏi fortune cookies thì hơi lạ, nhưng ở nhà hàng Trung – Nhật tại Mỹ thì nó luôn có sẵn như một luật bất thành văn.
Tựu trung, nguồn gốc của fortune cookies là một câu chuyện buồn cười.Buồn cho một giai đoạn lịch sử biến động, kéo theo số phận long đong không chỉ của một chiếc bánh. Và cười cho sự thiên biến vạn hóa ẩm thực, khi không một biên giới địa lý lẫn lịch sử nào có thể ngăn cản sự sáng tạo của nó.
Theo Trí thức trẻ
Umami: Vị ngon làm nên nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực Washoku
Washoku hiện không chỉ được biết đến là biểu tượng văn hóa ẩm thực của đất nước mặt trời mọc mà còn là một trong những nền văn hóa lành mạnh nhất thế giới.
Được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2013, đóng vai trò nền tảng trong việc tạo nên giá trị xuyên quốc gia cho Washoku chính là vị umami - thành viên thứ năm trong gia đình vị.
Washoku là gì?
Washoku là tên gọi chung của nền văn hóa ẩm thực xứ sở hoa anh đào, tuân thủ theo nguyên tắc tôn trọng thiên nhiên. Washoku không chỉ bao gồm món ăn mà còn hàm chứa khẩu vị, triết lý ẩm thực của người Nhật.
Washoku được chế biến từ những nguyên liệu tươi ngon, đảm bảo dinh dưỡng.
Washoku bắt đầu từ việc lựa chọn thực phẩm kỹ lưỡng, cấu trúc thực đơn với dinh dưỡng đầy đủ và cân bằng, đồ dùng phù hợp cho tới cách phục vụ, bày biện bàn ăn với tất cả lòng hiếu khách của gia chủ và cuối cùng là cách thức thưởng thức món ăn đầy nghệ thuật và tao nhã.
Vị umami - Khám phá vĩ đại của đất nước mặt trời mọc
Trong tiếng Việt, umami có thể được hiểu là vị ngọt thịt hay vị ngọt của rau, củ, hải sản... Vị này được tạo ra bởi glutamate, một axit amin tạo thành chất đạm (protein) và có mặt trong hầu hết thực phẩm trong tự nhiên. Tuy xuất hiện trong nền ẩm thực nhân loại từ cách đây rất lâu nhưng vị umami chỉ chính thức được biết đến sau khám phá của Giáo sư người Nhật Kikunae Ikeda vào năm 1908. Tên gọi umami cũng xuất phát từ tiếng Nhật, là sự kết hợp của từ "umai" (ngon) và "mi" (vị).
Vị umami có sẵn trong nhiều loại thực phẩm tự nhiên.
Sau khám phá của vị umami vào năm 1908, với ước vọng "tạo ra một loại gia vị chất lượng có giá thành hợp lí và biến những thực phẩm bổ dưỡng thành những món ăn ngon", Giáo sư Kikunae Ikeda đã tiếp tục nghiên cứu và tìm ra phương pháp để sản xuất gia vị umami với thành phần là mononatri glutamate hay còn gọi là bột ngọt vào năm 1909.
Cùng trong năm này, thương hiệu bột ngọt đầu tiên trên thế giới, bột ngọt AJI-NO-MOTO chính thức được ra đời. Kể từ đó, Bột ngọt AJI-NO-MOTO bắt đầu được những người nội trợ và đầu bếp tại Nhật Bản tin dùng như một giải pháp nhanh chóng và tiện lợi để mang đến những bữa ăn ngon hàng ngày và sau này trở nên nổi tiếng trên toàn cầu.
Vị umami trong di sản văn hóa phi vật thể Washoku
Nhờ khả năng kết hợp hài hòa các vị cơ bản trong ẩm thực, mang đến sự ngon miệng đặc trưng cho từng món ăn, vi umami đóng vai trò nền tảng tạo nên giá trị xuyên quốc gia của văn hóa ẩm thực Washoku.
Một trong những thành phần chính của văn hóa Washoku chính là nước dùng dashi - món nước dùng quốc hồn quốc túy của Nhật Bản. Đây cũng chính là khởi nguồn khám phá ra vị umami vào năm 1908. Nước dùng dashi thường được chế biến từ tảo bẹ kombu, cá ngừ bào katsuobushi, cá khô nhỏ niboshi, rau củ, nấm shiitake khô, ruột cá, đầu hay xương cá; đều là những nguyên liệu đậm vị umami.
Các loại nguyên liệu thường được dùng để chế biến dashi : cá khô nhỏ niboshi, tảo bẹ kombu,...
Bên cạnh dashi, Washoku cũng không thể thiếu các thực phẩm và gia vị lên men để ăn kèm với các món chính. Quá trình lên men nhiều tháng ròng giúp chất đạm (protein) có trong các nguyên liệu được phân giải thành các axit amin, trong đó có hàm lượng lớn glutamate và từ đó vị umami được tăng cường rõ nét.
Thực phẩm lên men tiêu biểu có shiokara, kusaya, narezushi và katsuobushi (lên men từ hải sản) hay natto và tera-natto (lên men từ đậu tương). Một số gia vị lên men như miso (xốt tương) và shoyu (nước tương), được làm bằng cách lên men đậu tương và các loại hạt ngũ cốc ướp muối, có vị umami đậm đà.
Như vậy, umami luôn hiện diện trong văn hóa ẩm thực Washoku, giúp mang đến sự ngon miệng hài hòa cho từng món ăn. Không chỉ thỏa mãn vị giác của người dùng, Washoku còn chinh phục những người yêu ẩm thực bởi cách trang trí và bày biện tinh tế, đẹp mắt cùng phong cách thưởng thức tao nhã đầy nghệ thuật đặc trưng của xứ sở hoa anh đào. Chính những giá trị độc đáo này đã giúp Washoku ngày càng được nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận và yêu thích.
QUỲNH CHI
Theo vtcnemws
Oyakodon cơm gà trứng Nhật Bản ngon ngậy nóng hổi cho ngày mưa lạnh Nhắc đến Nhật Bản là người ta nghĩ ngay đến những món ăn tinh tế với cách nấu ăn cực kì tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian. Thế nhưng giữa vô vàn món ăn như thế, Oyakodon lại được chế biến cực kì nhanh gọn nhẹ. Oyakodon được sáng tạo nên bởi nhà hàng Tamahide tại Tokyo vào năm 1891, gồm hai nguyên...