Đại biểu Quốc hội TPHCM nói về việc không được vượt qua “cơ chế đặc thù”
Các đại biểu Quốc hội TPHCM đồng tình các chính sách, cơ chế đặc thù sẽ giúp từng địa phương phát huy thế mạnh để phát triển, đóng góp cho Trung ương.
Tuy nhiên, việc thực hiện cần giám sát chặt chẽ.
Ngày 22/10, đại biểu Quốc hội khóa XV tại các điểm cầu trên cả nước đã thảo luận tổ nội dung tờ trình dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển 4 tỉnh, thành gồm Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa, Thừa Thiên – Huế.
Với đặc thù được triển khai, áp dụng từ sớm và các chính sách đặc thù đã mang lại những thành tựu lớn trong quá trình phát triển thời gian qua, các đại biểu của Tổ đại biểu Quốc hội TPHCM đều đồng tình với sự cần thiết trong việc áp dụng các chính sách đặc thù đối với các địa phương có tiềm năng. Điều này sẽ giúp các tỉnh, thành tự chủ được tài chính, ngân sách, chủ động thực hiện chính sách tầm vĩ mô.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Quốc hội cần giám sát, chặt chẽ, xác định rõ những điều không được vượt qua và tránh việc khắp nơi xin cơ chế đặc thù theo phong trào.
TPHCM đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển khi có các chính sách, cơ chế đặc thù (Ảnh: Phạm Nguyễn).
“Chung áo, chung mũ” nên khó phát huy…
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa chia sẻ hiện tại nhiều địa phương có những tiềm năng, đặc điểm đặc thù nhưng không phát huy được lợi thế. Thực trạng này đến từ việc pháp luật đang “chung áo, chung mũ” đối với các địa phương.
“Sự phân cấp, phân quyền, phân công và các quy định về kinh tế có những ràng buộc và gây khó khăn cho nhiều địa phương trong phát huy thế mạnh, làm hạn chế quyền tự chủ trong bàn hành chính sách, chủ trương” – ông Trương Trọng Nghĩa thẳng thắn nhìn nhận.
Bởi vậy, việc thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù ở một số nơi là cần thiết. Việc thí điểm ngoài hỗ trợ các địa phương còn để Quốc hội, Trung ương xem xét, tính toán mức độ hợp lý của các chính sách và áp dụng rộng rãi trên cả nước.
Tuy nhiên, vị đại biểu Quốc hội đoàn TPHCM cũng lưu ý, bên cạnh thực hiện thí điểm, Chính phủ, Trung ương, các bộ, ngành cần có giám sát và hướng dẫn. Một mặt áp dụng, tạo điều kiện phát huy lợi thế đặc thù, một mặt cần giám sát và không để xảy ra những vi phạm.
Video đang HOT
Ông Trương Trọng Nghĩa lấy ví dụ về một dự án đã cấp đất vượt thời gian so với thẩm quyền của tỉnh, thành phố và đề nghị, những vấn đề như vậy cần sớm “thổi còi”. Ngoài ra, nghị quyết về áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù cần thể hiện, xác định rõ tinh thần, một số điều nằm ngoài thẩm quyền của tỉnh, thành sẽ được tự quyết, tuy nhiên, có những điều không được vượt qua.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa, đoàn Đại biểu Quốc hội TPHCM (ảnh: Việt Hưng).
“Các vấn đề tài nguyên quốc gia, an ninh, quốc phòng nằm ở đó, nếu nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thì không xác định rõ thì có nguy cơ rất lớn” – ông Nghĩa nhấn mạnh.
Ông Trương Trọng Nghĩa cũng đề nghị, việc thực hiện chính sách đặc thù ở các địa phương vừa qua cần tổng kết, rút ra những kinh nghiệm để luật hóa, áp dụng cho cả 63 tỉnh, thành những vấn đề phù hợp. Như vậy, các địa phương không có cơ chế đặc thù không cảm thấy bức xúc.
“Tuy nhiên, cũng cần xác định rõ, có những cơ chế đặc thù không thể áp dụng cho tất cả địa phương mà chỉ dành cho những nơi có đặc điểm, động lực, lợi thể đầu tàu và đặc biệt. Chúng ta cần thực hiện làm sao để việc thông qua các chính sách, cơ chế đặc thù không mang tính hời hợt, hình thức nhưng cũng không sa đà vào “chủ nghĩa bình quân cơ chế đặc thù”, nơi nào cũng xin cơ chế đặc thù” – ông Trương Trọng Nghĩa nêu quan điểm.
Cơ chế đặc thù để tự chủ tài chính
Đại biểu Trần Hoàng Ngân cho biết, Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng là những đô thị rất đặc biệt nên có các cơ chế đặc thù để phát huy, đóng góp nhiều hơn cho cả nước. Vấn đề cơ chế, chính sách đặc thù đã giúp thành phố đạt được những thành quả quan trọng về quản lý đất đai, thu nhập cán bộ, công chức, viên chức, các vấn đề về thu chi ngân sách Nhà nước.
Đối với 4 địa phương mà Quốc hội trình cơ chế, chính sách đặc thù, ông Trần Hoàng Ngân cho biết chỉ Hải Phòng là có thể tự chủ tài chính và có tỷ lệ điều tiết ngân sách về Trung ương. Các địa phương còn lại gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế đều chưa tự chủ được ngân sách và cần Trung ương hỗ trợ hàng nghìn tỷ mỗi năm.
Ông Trần Hoàng Ngân bày tỏ quan điểm đồng tình với việc áp dụng chính sách, cơ chế đặc thù đối với 4 tỉnh, thành (Ảnh: Việt Hưng).
“Các địa phương này đều có rất nhiều tiềm năng. Cơ chế, chính sách hỗ trợ là cần thiết để giúp các địa phương vươn lên tự chủ tài chính, giúp ngân sách Trung ương có nguồn thu và chủ động thực hiện các chính sách vĩ mô” – ông Trần Hoàng Ngân bày tỏ quan điểm đồng tình với việc áp dụng chính sách, cơ chế đặc thù đối với 4 tỉnh, thành.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM, phân tích, sau khi rà soát, cơ chế, đặc thù để phát triển 4 địa phương trên cần tập trung vào 4 nhóm nội dung chính.
Đầu tiên là các cơ chế đặc thù trong quản lý đất đai, phân cấp, phân quyền cho HĐND cấp tỉnh, thành nhiều hơn; 2 là cơ chế quản lý quy hoạch; 3 là quản lý tài chính, ngân sách, thu lệ phí; 4 là thu nhập cán bộ, công chức, viên chức.
Ngoài ra, đại biểu Trần Hoàng Ngân cũng đồng tình với việc cần những cơ chế giám sát thường xuyên để phát huy nội dung về cơ chế, chính sách, đặc thù cho các địa phương. Ông Ngân cho rằng, trong việc giám sát, các địa phương tự chủ được tài chính sẽ bớt nỗi lo hơn các địa phương không có nguồn thu về Trung ương.
“Đối với các địa phương chưa tự chủ được tài chính nhưng được giao quyền để phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, nếu không kiểm soát tốt, nợ của chính quyền địa phương sẽ làm tăng nợ công chung. Quản lý nợ công chung, giám sát, kiểm soát bội chi ngân sách là những vấn đề cần đặc biệt quan tâm” – ông Trần Hoàng Ngân lấy ví dụ.
Sở hữu trí tuệ: Bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế
Về cơ bản, nội dung của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đã đáp ứng cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA.
Yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) chiều ngày 21/10, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, SHTT là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội vì tài sản trí tuệ có giá trị lớn trong nền kinh tế tri thức, là nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh và là công cụ cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
Trải qua 16 năm thi hành từ khi được ban hành năm 2005 đến nay, Luật SHTT đã phát huy vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật đối với loại tài sản đặc biệt này. " Tuy nhiên, bối cảnh phát triển hiện nay đã có nhiều thay đổi so với năm 2005. Việt Nam không còn thuần túy là nước "sử dụng tài sản trí tuệ" mà đang chuyển mạnh sang là nước tạo ra tài sản này phục vụ cho mô hình tăng trưởng theo chiều sâu " - Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nêu.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT vào năm 2009 và 2019 không đáng kể, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, cũng như chưa đảm bảo hành lang pháp lý đầy đủ và hiệu quả đối với việc bảo hộ, khai thác và bảo vệ tài sản trí tuệ. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT lần này là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Điều này đã được thể hiện trong chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa để chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
"Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay với việc Việt Nam tham gia nhiều cam kết quốc tế hướng đến việc nâng cao đáng kể mức độ bảo hộ và thực thi quyền SHTT, điển hình là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Những cam kết quốc tế này đòi hỏi việc nội luật hóa thông qua sửa đổi, bổ sung Luật SHTT" - Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho hay.
Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, việc xây dựng dự án Luật đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm các bước: Thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập; xây dựng dự thảo; tổ chức các hội nghị hội thảo, gửi công văn xin ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan; lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; thẩm định hồ sơ dự án Luật; trình Chính phủ cho ý kiến về hồ sơ dự án Luật và hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội.
Theo đó, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 92 điều (trong đó bổ sung 12 điều, sửa đổi 80 điều) và bãi bỏ 02 điều, nâng tổng số điều của Luật Sở hữu trí tuệ sau khi sửa đổi lên 232 điều, thuộc 7 nhóm chính sách đã được thông qua. Cụ thể, bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan.
Đồng thời, khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước; tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp; bảo đảm mức độ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Cùng với đó, tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập.
Trình bày Báo cáo thẩm tra về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, Ủy ban Pháp luật tán thành việc sửa đổi Luật với các lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Các tài liệu trong Hồ sơ dự án Luật đã đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ hai.
"Về cơ bản, nội dung của dự thảo Luật đã đáp ứng cam kết trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, nhất là Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA" - ông Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, trên cơ sở các nội dung trên đây và Báo cáo thẩm tra đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội, Tờ trình và Hồ sơ dự án Luật, Ủy ban Pháp luật đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tập trung cho ý kiến về 02 vấn đề Chính phủ xin ý kiến gồm: Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; việc thu hẹp phạm vi xử phạt hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Đồng thời, tập trung cho ý kiến về tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật; tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Các nội dung cụ thể liên quan đến từng nhóm vấn đề về sở hữu công nghiệp; về quyền tác giả, quyền liên quan; về quyền đối với giống cây trồng...
'Tăng quyền cho công an xã được tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm là cần thiết' Các đại biểu Quốc hội đồng tình bổ sung chức năng tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của công an xã tại phiên thảo luận ở tổ vào chiều 20-10 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự. Các đại biểu Quốc hội đồng tình bổ sung chức năng tiếp nhận tố...