“Đại Bàng quắp” Campuchia: Cuộc tập dượt cho “Gió Lốc” Sài Gòn
Trước khi tiến hành “Chiến dịch Gió Lốc” ở Sài Gòn, hải quân đánh bộ Mỹ đã tiến hành “Chiến dịch Đại Bàng quắp”, di tản người Mỹ ở Phnom Penh-Campuchia.
Quá trình chuẩn bị cho “Chiến dịch Đại Bàng quắp”
“Chiến dịch Đại Bàng quắp” ( Operation Eagle Pull) là chiến dịch di tản không vận do Mỹ tiến hành ở thủ đô Phnom Penh, Campuchia. Chiến dịch do Cụm Hải quân đánh bộ viễn chinh số 31 (The 31st Marine Expeditionary Unit – 31st MEU), có đại bản doanh tại trại Hansen – Okinawa – Nhật Bản tiến hành.
Đầu tháng 4 năm 1975, Phnom Penh là tiền đồn cuối cùng của nước Cộng hòa Khmer đang bị Khmer Đỏ bao vây và hoàn toàn phụ thuộc vào việc tiếp tế trên không thông qua sân bay Pochentong. Tình trạng của chính phủ Campuchia hết sức nguy ngập, tan rã là chuyện một sớm một chiều.
Trong bối cảnh đó, song song với việc triển khai các “Chiến dịch Gió Lốc” (Operation Frequent Wind) và “Chiến dịch Không vận Trẻ em (Operation Babylift), sơ tán người Mỹ và trẻ em ở Sài Gòn, Mỹ cũng triển khai “Chiến dịch Đại bàng quắp” (Operation Eagle Pull) di tản nhân viên Mỹ và viên chức Campuchia bằng máy bay trực thăng tới tàu chiến neo trong vịnh Thái Lan.
Chiến dịch Eagle Pull diễn ra vào sáng 12 tháng 4 năm 1975, là một thành công mỹ mãn của chiến thuật không vận, không có bất kỳ tốn thất về nhân mạng. Sau đó, vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, Cộng hòa Khmer sụp đổ.
Ngày 3 tháng 3 năm 1975, Nhóm sẵn sàng đổ bộ Alpha trực thuộc Biệt đội 76.4 (Task Group 76.4) và đơn vị thủy quân lục chiến đổ bộ 31 trực thuộc Biệt đội 79.4 (Task Group 79.4) lên tàu và đến vị trí đã định là Kampong Som, nằm trong vịnh Thái Lan, lực lượng bao gồm:
Thủy quân lục chiến Mỹ triển khai tại khu vực hạ cánh vào ngày 12 tháng 4 năm 1975
Tàu sân bay USS Okinawa, tàu vận chuyển đổ bộ LPD-2 USS Vancouver, tàu dock chở tàu đổ bộ LSD-28 USS Thomaston. Biên đội này mang theo Phi đội trực thăng hạng nặng HMH-462 của hải quân đánh bộ Mỹ (Marine Heavy Helicopter Squadron 462), bao gồm 14 chiếc CH-53, 3 chiếc CH-46, 4 chiếc AH-1J và 2 chiếc trực thăng UH-1E
Biên đội tàu hộ tống, chống ngầm và phòng không bao gồm khu trục hạm DD-946 USS Edson, khu trục hạm tên lửa DDG-7 USS Henry Braid Wilson và 2 tàu hộ vệ lớp Knox mang số hiệu FF-1052 USS Knox và FF-1087 USS Kirk.
Ngày 17 tháng 3, Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ (Joint Chiefs of Staff) lo ngại một phi đội máy bay trực thăng hải quân đánh bộ không đủ để sơ tán, bèn ra lệnh điều động thêm tàu sân bay CV-19 USS Hancock. Tàu được lệnh loại bỏ toàn bộ tiêm kích hạm và tiến tới Trân Châu Cảng.
Ngày 26 tháng 3, Phi đội Trực thăng hạng nặng Thủy quân lục chiến HMH-463 gồm 25 chiếc CH-53, CH-46, AH-1J và trực thăng UH-1E đã được đưa lên tàu sân bay Hancock và tới vịnh Subic và lấy thêm nhiều máy bay trực thăng tại vịnh này.
Khi đó, Hancock tạm giao cho Nhóm sẵn sàng đổ bộ Bravo (Amphibious Ready Group Bravo) đang trú đóng tại Vũng Tàu, miền Nam Việt Nam, nhưng đến ngày 11 tháng 4 tàu sân bay này gia nhập Nhóm sẵn sàng đổ bộ Alpha tại vịnh Thái Lan.
Không ảnh 3 chiếc trực thăng CH-53 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đậu trên khu vực hạ cánh
Tuy Khmer Đỏ không có các hệ thống phòng không hiện đại nhưng có thể sở hữu súng phóng tên lửa đất đối không SA-7 nên các máy bay trực thăng di tản đều được sơn thêm một lớp sơn phản xạ hồng ngoại và được trang bị máy gây nhiễu ký hiệu ALE-29.
Vào chiều ngày 11 tháng 4 năm 1975, Cụm Hải quân đánh bộ viễn chinh số 31 của hải quân Mỹ (The 31st Marine Expeditionary Unit – 31st MEU) nhận được lệnh thực hiện Chiến dịch “Eagle Pull”.
Lúc 06h00 ngày 12 tháng 4, 12 chiếc CH-53 của HMH-462 cất cánh từ boong tàu sân bay USS Okinawa một số khác từ tàu đổ bộ USS Vancouver, mang theo tổng cộng khoảng 360 lính thủy đánh bộ bay theo hướng tây nam, vượt quãng đường gần 200km vào Phnom Penh.
“Đại bàng quắp” Campuchia: Cuộc tập dượt cho “Gió Lốc” Sài Gòn
Video đang HOT
Lúc 07h30 Đại sứ John Gunther Dean đã thông báo cho quyền Tổng thống Campuchia, Thủ tướng Long Boret và các nhà lãnh đạo khác của Campuchia bao gồm cả Hoàng thân Sisowath Sirik Matak, rằng người Mỹ sẽ chính thức rời khỏi nước này trong vòng vài giờ tới, nếu ai muốn di tản thì nên tới đại sứ quán Mỹ vào lúc 09h30.
Tất cả đều từ chối ngoại trừ quyền Tổng thống Saukam Khoy. Hoàng thân Sirik Matak, cựu Thủ tướng Chính phủ và là một “”nguyên lão công thần” trong quá trình hình thành của Cộng hòa Khmer từ chối lời đề nghị di tản và nói với Đại sứ Dean rằng: “Tôi đã phạm phải sai lầm này khi tin tưởng vào người Mỹ”.
Lính thủy đánh bộ bảo vệ vành đai của khu vực hạ cánh
Toán di tản lái xe tới khu vực hạ cánh mang mật danh “Khách sạn” – một sân bóng cách Đại sứ quán Mỹ 900m về phía đông bắc, tiến hành việc liên lạc với King Bird, chiếc máy bay HC-130 của Phi đội cứu hộ và giải cứu hàng không số 56 (56th Aerospace Rescue and Recovery Squadron) sẽ kiểm soát dòng máy bay trực thăng.
Vào 07h43 nhóm máy bay trực thăng đầu tiên của HMH-463 vượt qua bờ biển Campuchia và khoảng một giờ sau đó, sau khi vượt qua quãng đường hơn 160 km lãnh thổ thù địch, tốp đầu tiên hạ cánh tại “Khách sạn”, lúc này lực lượng hải quân đánh bộ do HMH-462 đưa đến trước đã thành lập một vành đai phòng thủ.
Việc di tản được tiến hành suôn sẻ bởi vì số lượng người sơ tán về cơ bản thấp hơn so với dự kiến. Các ước tính chi tiết cho thấy có 590 người được sơ tán, bao gồm 146 người Mỹ và 444 người Campuchia làm việc cho Mỹ và công dân của các nước thứ ba.
HMH-462 sơ tán 84 người Mỹ và 205 người Campuchia cùng công dân các nước thứ ba. Trong số người di tản còn có thêm các phóng viên nước ngoài đưa tin về cuộc chiến giữa Khmer Đỏ và chính phủ Campuchia khi đó cũng được đưa khỏi đất nước Chùa Tháp.
Lúc 09h45, Đại sứ quán Mỹ chính thức đóng cửa, chấm dứt quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Campuchia một lần nữa cho đến khi được nối lại vào ngày 11 tháng 11 năm 1991.
Nhóm tác chiến của chiến dịch Eagle Pull ăn mừng thành công tuyệt đối của chiến dịch trên đất Thái Lan
Khoảng 10h41, tất cả số người di tản trong đó có Đại sứ Dean và Tổng thống Saukam Khoy đã được những chiếc trực thăng của HMH-462 bốc lên. Sau đó, máy bay trực thăng của HMH-463 quay lại từ tàu sân bay Hancock bắt đầu đáp xuống đón các binh sĩ của lực lượng bảo vệ dưới mặt đất.
Lo ngại có thể bị Khmer Đỏ tấn công bất cứ lúc nào nên phía Mỹ đã điều hơn 300 tay súng của hải quân đánh bộ đến bảo vệ các khu vực di tản. Tuy nhiên, kế hoạch đã diễn ra trót lọt, không có tổn thất gì về người và trang bị.
Vào khoảng 10h50, Khmer Đỏ bắt đầu bắn hàng loạt quả rốc két 107 ly gây ảnh hưởng nghiêm trọng trong vùng lân cận khu vực hạ cánh “Khách sạn”. Khoảng 10 phút sau đó, khu vực này còn phải hứng chịu thêm các loạt đạn súng cối 82 ly.
Lúc 10:59, đơn vị không quân cuối cùng của hải quân đánh bộ Mỹ rời khỏi khu vực và chiếc trực thăng cuối cùng đã hạ cánh trên tàu sân bay Okinawa vào lúc 12h15.
Lúc 11h15, theo kế hoạch, hai chiếc siêu trực thăng khổng lồ màu xanh lá cây HH-53 của Không quân Mỹ từ Phi đội cứu hộ và giải cứu hàng không 40, bay tới đón ban chỉ huy chiến dịch Eagle Pull. Chúng đã bị súng máy phòng không 12,7mm ở mặt đất tấn công nhưng chỉ bị hư hại nhẹ.
Lúc 14h50, một chiếc CH-53 của HMH-462 khởi hành từ tàu sân bay Okinawa tới chở Đại sứ Dean đến căn cứ không quân Utapao ở Thái Lan. Sang ngày 13 tháng 4, toàn bộ số người di tản đã được đưa tới căn cứ không quân Utapao ở Thái Lan trên những chiếc trực thăng của nhóm HMH-462.
Đại sứ Dean bước ra khỏi chiếc trực thăng CH-53 tại Utapao vào buổi chiều ngày 12 tháng 4 năm 1975
Sau đó, Nhóm sẵn sàng đổ bộ Alpha hành trình tới điểm hẹn với lực lượng đặc nhiệm 76 (Task Force 76) ở trên biển Đông, nhằm chuẩn bị thực hiện “Chiến dịch Gió Lốc” (Operation Frequent Wind) với mục tiêu di tản nhân viên Đại sứ quán Mỹ và lãnh đạo, công dân, viên chức Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn.
Đối với các nhóm đổ bộ thuộc hải quân đánh bộ Mỹ, “Chiến dịch Đại Bàng quắp” (Operation Eagle Pull) đóng vai trò như là một cuộc diễn tập quy mô nhỏ cho chiến dịch “Operation Frequent Wind” phức tạp hơn, di tản tổng cộng gần 100.000 người Việt Nam 17 ngày sau đó.
Theo Thiên Nam/Đất Việt
Hé lộ kế hoạch di tản tuyệt mật của Mỹ năm 1975
Tháng 4-1975, Mỹ đã xây dựng những kế hoạch tuyệt mật, di tản trẻ em Việt Nam, người Mỹ, quan chức và điệp viên của CIA khỏi Sài Gòn.
40 năm trước, giây phút 5 cánh quân của Quân giải phóng nhân dân Việt Nam tiến vào giải phóng Sài Gòn đã trở thành thời khắc đau đớn nhất trong lịch sử của nước Mỹ, trong thế kỷ 20.
30-4-2015 là ngày kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Việt Nam nhưng cũng là ngày nước Mỹ kỷ niệm 40 năm thất bại duy nhất và cũng là đau đớn nhất trong lịch sử hàng chục cuộc chiến tranh ở khắp nơi trên thế giới của họ.
Mỗi khi nghĩ về giai đoạn bi thảm đó, những chính khách, quan chức quân sự và điệp viên Mỹ đã từng trải qua những giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam không thể quên được giây phút lên trực thăng trên nóc Đại sứ quán Mỹ để chạy trốn khỏi Sài Gòn.
Hiện nay, trong bối cảnh xung đột đang diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, cuộc chiến ở Việt Nam vẫn mãi là một bài học kinh nghiệm xương máu. Cứ mỗi ngày cuối tháng 4 hàng năm, những người đã từng tham gia "cuộc đào thoát vĩ đại" này lại nhớ về những giây phút kinh hoàng này.
Sài Gòn, buổi chiều trước ngày 30-4-1975
Quan chức Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) Frank Snepp cũng như tất cả những quan chức người Mỹ có mặt trong Đại sứ quán Hoa Kỳ đang nóng ruột như lửa đốt.
Bước chân của Quân giải phóng nhân dân Việt Nam đang ngày một gần, tình hình trong và ngoài Đại sứ quán Mỹ cũng đang ngày càng hỗn loạn, Snepp cần phải sơ tán gấp tất cả những điệp viên và bằng hữu của mình trước khi "Việt Cộng" đánh chiếm Sài Gòn.
Trực thăng Mỹ từ tàu chiến bay vào Sài Gòn di tản công dân Mỹ
Cũng trong giây phút Snepp chỉ huy "cuộc đào thoát vĩ đại", tại văn phòng của mình tại Nhà Trắng, Tổng thống Ford đang ngồi một mình trong "Phòng bầu dục", quan sát cảnh tượng trực thăng của hải quân đánh bộ Mỹ sơ tán những công dân Hoa Kỳ cuối cùng trên nóc ở trên nóc tòa Đại sứ Mỹ.
Sau này, trong một buổi phỏng vấn, vị cựu Tổng thống Mỹ này đã nhớ lại: "Ngày 30-4-1975 là thời khắc ám ảnh suốt cuộc đời tôi khi đích thân nhìn thấy người Mỹ bị hất cẳng khỏi Việt Nam". Trong suốt hơn 10 năm can dự vào cuộc chiến tranh ở mảnh đất nhiệt đới này, Mỹ đã tổn thất 58.000 quân.
Niềm tin đánh mất
Vào năm 2000, thư viện cá nhân của cựu Tổng thống Ford cũng đã công khai một số tài liệu tuyệt mật, giải mật một số nội tình trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh 25 năm về trước và hé lộ cảm nghĩ của những "người trong cuộc".
Những tài liệu này đề cập đến tâm trạng của 2 chứng nhân vô cùng quan trọng trong thời điểm đó: Sự day dứt không nguôi của Điệp viên cao cấp Cục tình báo trung ương Mỹ CIA tại Đại sứ quán Mỹ ở Nam Việt Nam và lý tưởng sống của điệp viên-tình báo, nguyên phóng viên của tờ báo Mỹ "Times" Phạm Xuân Ẩn.
Sau 5 năm ở Việt Nam, điệp viên cao cấp rất mẫu mực của CIA Frank Snepp đã hoàn toàn đánh mất niềm tin. 5 năm trước, khi một người đàn ông rất đẹp trai từ Bắc Carolina sang làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Nam Việt Nam, dưới quyền của Đại sứ Mỹ Graham Martin, anh đặc biệt ngưỡng mộ sự thông minh và nhiệt huyết của ông.
Điệp viên cao cấp CIA Frank Snepp - thời điểm trước khi Sài Gòn thất thủ
Điều mà Snepp kính phục nhất là vào năm 1973, vị Đại sứ này đã có một câu nói không những làm phấn chấn cả chế độ Việt Nam Cộng hòa mà còn khích lệ tinh thần người Mỹ là: "Tôi sẽ không bao giờ để Việt Nam rơi vào tay chế độ Cộng sản". Thế nhưng đến mùa xuân năm 1975, niềm tin này đã sụp đổ.
Lúc này, quân lực Việt Nam Cộng hòa đang vùng vẫy trong vô vọng, Quốc hội Mỹ cũng không còn viện trợ dễ dãi cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa như cho kẹo một đứa trẻ nữa. Và dĩ nhiên là câu nói bất hủ "Nước Mỹ không thể bị đánh bại" của ông Martin cũng không còn là một "liều thuốc thần".
Kế hoạch di tản tuyệt mật
Ngày 17-4-1975, Frank Snepp đã nắm được một thông tin "động trời" từ một điệp viên 2 mang. Điệp viên này thông báo với Snepp một thông tin tình báo chiến lược là "Việt Cộng" đã xây dựng kế hoạch giải phóng Sài Gòn đúng vào ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là 19-5, nếu không có biến động gì, cuộc Tổng công kích có thể bắt đầu vào ngày 1-5.
Ngày 17-4-1975, Frank Snepp đã nắm được một thông tin "động trời" từ một điệp viên 2 mang. Điệp viên này thông báo với Snepp một thông tin tình báo chiến lược là "Việt Cộng" đã xây dựng kế hoạch giải phóng Sài Gòn đúng vào ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là 19-5, nếu không có biến động gì, cuộc Tổng công kích có thể bắt đầu vào ngày 1-5.
Snepp vội vã báo cáo tin tức tuyệt mật về "Chiến dịch Hồ Chí Minh" với Đại sứ Martin và tổng bộ CIA ở Hoa Kỳ, cùng với Văn phòng trợ lý An ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ. Thế nhưng, Đại sứ Martin không tin vào những thông tin mà ông báo cáo, Snepp lập tức nổi cơn điên.
Rất may mắn là Tổng thống Ford đặc biệt chú ý tới thông tin tình báo tối khẩn mà Snepp gửi về từ Sài Gòn. Ngay trong đêm đó, Tổng thống Mỹ đã triệu tập một cuộc họp bí mật khẩn cấp với những cộng sự thân cận và đưa ra 2 quyết định cực kỳ quan trọng.
Những trẻ em Việt Nam trong chuyến bay từ Sài Gòn đến thành phố San Francisco ở Mỹ, tháng 4-1975
Thứ nhất: Lập tức giảm số lượng quan chức và nhân viên nguời Mỹ ở Đại sứ quán tại Sài Gòn xuống còn 1250 người. Trong tình huống khẩn cấp, toàn bộ số người này sẽ được sơ tán bằng trực thăng của lực lượng hải quân đánh bộ từ các tàu chiến gần bờ biển Nam Việt Nam trong vòng 1 ngày.
Thứ 2: Lần lượt sơ tán khoảng 200.000 người, bao gồm: các quan chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa và gia quyến; "tay chân", "vợ hờ" của các quan chức quân sự, dân sự Mỹ và những đứa trẻ có huyết thống Mỹ. Tốp đầu tiên có thể được di tản bằng máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất vài ngày sau cuộc họp.
Tuy mãi đến ngày 21-4-1975 chiến dịch di tản theo quyết định số 2 mới bắt đầu được triển khai nhưng trên thực tế từ trước đó, Hoa Kỳ đã tiến hành một chiến dịch khác, di tản hàng nghìn trẻ em Việt Nam mà họ coi là "trẻ mồ côi" hay "trẻ vô gia cư" sang Mỹ.
Khái lược về chiến dịch "Operation Babylift" (Không vận Trẻ em) của Mỹ
Ngay từ đầu tháng 4-2014, sau khi Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa... liên tiếp thất thủ, dự cảm trước thất bại không thể cứu vãn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Washington đã triển khai kế hoạch di tản hàng nghìn trẻ em Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Đầu tháng 4-1975, quân đội Mỹ thực hiện chiến dịch "Operation Babylift" (Không vận Trẻ em) đưa hàng nghìn người con Việt Nam rời khỏi quê hương. Ngày 2-4-1975, chuyến bay đầu tiên chở gần 60 trẻ em đã cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất, mặc dù một ngày sau, tổng thống Mỹ Gerald R. Ford mới chính thức phê chuẩn chiến dịch.
Tính tổng cộng, quân đội Mỹ đã tiến hành hơn 30 chuyến bay kể từ khi bắt đầu vào ngày 2-4-1975. Chuyến bay cuối cùng rời khỏi Sài Gòn cất cánh ngày 26-4-1975, ba ngày trước khi người Mỹ hoàn toàn sơ tán khỏi Việt Nam. Theo ước tính, Mỹ đã đưa gần 2.700 trẻ em rời Việt Nam.
Washington tuyên bố, "Operation Babylift" là một chiến dịch nhân đạo, phần lớn trẻ mà họ đưa rời khỏi Việt Nam là trẻ mồ côi ở nhiều độ tuổi. Những đứa trẻ này có thể mất bố, mẹ vì chiến tranh, bị bỏ rơi, hoặc là con của lính Mỹ với phụ nữ Việt Nam trong thời chiến.
Tuy nhiên, nhiều người chỉ trích rằng, không phải tất cả các em đều là trẻ mồ côi như Washington khẳng định. Ngoài ra, nhiều người không đồng tình về hành động tự quyết định số phận của người khác của Hoa Kỳ, khi tách những đứa trẻ này khỏi đất nước và cội nguồn dân tộc.
Nhiều thập kỷ qua, những đứa trẻ Babylift đã trưởng thành và dù sống trong sự thương yêu của bố mẹ nuôi, những trẻ em được đưa sang Mỹ ngày xưa vẫn liên tục tìm kiếm gốc gác, cội nguồn bản thân. Nguyện vọng của họ là tìm thấy đấng sinh thành hoặc người thân ở Việt Nam.
Những thành viên Babylift năm xưa đã tập hợp lại và trở về Việt Nam vào tháng 6-2005. Dù cũng đã có những trường hợp tìm lại được người thân nhưng 3 thập kỷ đã trôi qua, cha mẹ của những đưa trẻ này cũng đã già, người còn-người mất, thông tin mờ mịt nên không nhiều người thực hiện được nguyện vọng của mình.
Theo Đất Việt
Thêm hai cựu quan chức Khmer Đỏ bị đưa ra xét xử Tòa án quốc tế xét xử tội ác Khmer Đỏ tại Campuchia ngày 3.3 mở phiên xét xử vắng mặt hai cựu quan chức của chế độ diệt chủng này, theo tờ Cambodia Daily. Các nạn nhân của Khmer Đỏ - Ảnh: Reuters Các bị cáo Meas Muth, Tư lệnh Hải quân Khmer Đỏ và Im Chaem, một nữ quan chức cấp huyện,...