Đặc nhiệm Mỹ bay như chim bằng dù RA-1
Đặc nhiệm Mỹ sẽ được trang bị loại dù đặc chủng mới giúp nhảy từ độ cao lớn, tải trọng nặng và bay xa hàng chục km.
Theo tờ Army Times, loại dù mới mà Mỹ sẽ trang bị cho đặc nhiệm có tên gọi là RA-1. Loại dù này giúp đặc nhiệm Mỹ có thể nhảy từ độ cao 7,3 km với khối lượng lên tới 204 kg. Đặc biệt, với loại dù mới, lính Mỹ có thể bay tới mục tiêu ở khoảng cách lên tới 47 km so với điểm nhảy dù.
Nhờ tải trọng lớn (lên tới trên 200 kg), lính Mỹ có thể thực hiện cú nhảy dù với trang bị đầy đủ, kể cả áo giáp. Người Mỹ khẳng định mẫu dù mới RA-1 có đặc điểm kỹ chiến thuật vượt trội so với loại dù cũ đang được dùng phổ biến là MC-4. Trong điều kiện được huấn luyện tốt và chuẩn bị chu đáo, dù RA-1 có thể giúp nhảy từ độ cao trên 10 km.
Dù MC-4 của Mỹ
Theo kế hoạch, RA-1 sẽ được Mỹ đưa vào trang bị cho các lực lượng đặc nhiệm trong quý III/2014. Tuy nhiên, việc trang bị loại dù mới này sẽ chỉ hạn chế cho một số đơn vị đặc nhiệm có quy mô nhỏ. Một trong những nguyên nhân là RA-1 có khả năng cơ động cao. Chính tính cơ động này lại không thích hợp cho việc thả quân dù hàng loạt với quy mô lớn. Những chiếc dù có khả năng bay xa tới gần 50 km ở tốc độ cao sẽ khiến lính dù dễ va chạm vào nhau ngay trên không.
Khác với đa số loại dù thông thường, RA-1 được trang bị ghế ngồi giúp lính đặc nhiệm không bị tê chân trong quá trình nhảy dù kéo dài và ngay khi tiếp đất họ có thể sẵn sàng lâm trận. Ngoài ra, mẫu dù mới còn có các trang thiết bị bổ sung như quần áo giữ nhiệt, mặt nạ dưỡng khí giúp bay ở độ cao lớn trong thời gian dài. RA-1 thậm chí còn có hệ thống dẫn đường hiện đại.
RA-1 trong trạng thái rơi tự do
Theo các chuyên gia, mẫu dù RA-1 của Mỹ được chế tạo theo dạng “cánh”. Loại dù thông thường có dạng “vòm” chỉ có thể bay từ trên xuống, dù dạng “vòm” có khe mang giúp bay xuống và tiến về phía trước. Trong khi đó, dù dạng “cánh” sẽ tạo lực nâng nhờ chuyển động ngang. Tốc độ trong khi bay sẽ tạo ra áp suất chênh lệch giữa phần dưới và trên “cánh” dù. Cấu tạo này giúp dù có diện tích nhỏ hơn loại dạng “vòm” trong khi vẫn tạo ra lực nâng tương đương.
Cấu tạo dạng “cánh” cũng giúp dù giảm tốc độ rơi trong khi tăng tốc độ di chuyển ngang. Theo tính toán, RA-1 có thể bay với tốc độ 32 km/h theo chiều ngang và tốc độ hạ cánh từ 0-6 km/h.
Video đang HOT
Dù dạng vòm có khe mang Việc điều khiển cánh dù được thực hiện bằng hai dây dù điều khiển hai bên. Nếu kéo dây dù bên trái, cánh dù sẽ xoay về bên phải và ngược lại. Nếu kéo đồng thời cả hai dây dù điều khiển, dù sẽ giảm tốc độ chuyển động ngang. Kéo mạnh tới một lực cần thiết, cánh dù sẽ thay đổi hình dạng để không tạo ra lực nâng nữa và khi đó dù sẽ rơi thẳng đứng.
Dù RA-1 dạng cánh còn có một đặc điểm đáng chú khác là ngay trước khi ngừng tạo lực nâng, tốc độ rơi và tốc độ di chuyển ngang của dù sẽ gần như ngay lập tức giảm về 0 km/h (tức là trong trạng thái không di chuyển). Nếu như ngay lúc đó, thả dây dù điều khiển về vị trí cũ, dù sẽ trở lại hình dạng ban đầu và tiếp tục bay với tốc độ cũ.
Người Nga hiện cũng có một mẫu dù tương tự RA-1 của Mỹ là Arbalet. Tuy nhiên, thông tin về loại dù của Nga hiện vẫn là một bí mật, đặc biệt là về khả năng bay xa của loại dù này.
Có thông tin cho rằng mẫu dù Arbalet-2 có thể mang khối lượng tối đa 150 kg, có thể sử dụng trong điều kiện nhiệt độ từ -35 độ C đến 35 độ C. Loại dù này của Nga có thể đảm bảo cho cú nhảy từ máy bay đang di chuyển với tốc độ 350 km/h.
Loại dù của Nga đã trải qua quá trình thử nghiệm cấp quốc gia tại Trung tâm bay thử nghiệm Bộ Quốc phòng và hiện đã được đưa vào sử dụng.
Dù Arbalet của Nga
Theo kế hoạch, đến giữa năm 2015, lính dù Nga sẽ được trang bị 400 hệ thống dù Arbalet-2. Loại dù này sẽ được trang bị cho các đơn vị đặc nhiệm, đặc nhiệm-dù và lính dù cứu hộ với trang thiết bị và vũ khí đầy đủ.
Loại dù này có thể được sử dụng để nhảy từ các loại máy bay Il-76, An-12, An-26, An-2 và cả trực thăng Mi-8. Đây là những loại máy bay có trang thiết bị cần thiết cho lính dù.
Theo Đất Việt
Vụ tập kích Sơn Tây (1): Đặc nhiệm Mỹ chắc mẩm "vớt cá trong rọ"
Ngày 21/11/1970 Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh thực hiện chiến dịch giải cứu tù binh mang mật danh "Kingpin" (Bờ biển Ngà), sử dụng đơn vị đặc nhiệm thuộc không quân 1127, bất ngờ tập kích, giải cứu tù binh tại trại tù binh Sơn Tây.
Kể từ khi can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam tháng 8/1964, số lượng phi công Mỹ bị bắt làm tù binh ngày càng nhiều. Ngày 21/11/1970 Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh thực hiện chiến dịch giải cứu tù binh mang mật danh "Kingpin" (Bờ biển Ngà), sử dụng đơn vị đặc nhiệm thuộc không quân 1127, bất ngờ tập kích, giải cứu tù binh tại trại tù binh Sơn Tây.
Thời kháng chiến chống Mỹ, quân dân ta bắ.n rơi nhiều máy bay và bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Tính từ viên phi công Everett Alvarer lái chiếc A4 Skyhawk, b.ị bắ.n rơi đầu tiên ngày 5/8/1964 trên bầu trời Hải Phòng đến ngày 31/10/1968, ngày tổng thống Johnson tuyên bố ngừng cuộc né.m bo.m đán.h phá miền Bắc, số lượng tù binh phi công lên đến 356 người.
Những phi công tù binh ban đầu được giam ở Hỏa Lò nhưng về sau ngày càng đông nên được chuyển bớt đi một số nơi. Một trong số đó là trại giam Mai Châu - Hòa Bình và trại giam Sơn Tây (thị xã Sơn Tây), cách Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây Bắc. Qua các thông tin tình báo, Cơ quan tình báo quân đội Mỹ DIA đã nắm được các thông tin này.
Ở trong lòng nước Mỹ, cùng với số thanh niên chế.t trận ngày càng nhiều, càng có nhiều người mất lòng tin vào cuộc chiến và cùng với những tin tức bịa đặt "các tù binh Mỹ bị đối xử thô bạo, có người đán.h đậ.p đến chế.t" mà báo chí Mỹ đưa tin, các tổ chức phản chiến và người nhà của các tù binh càng quyết liệt yêu cầu chính phủ đứng ra can thiệp yêu cầu Bắc Việt thả tù binh, áp lực đối với chính phủ Mỹ cũng ngày càng lớn.
Từ thủ đô Washington men theo bờ sông Potomac về phía Nam 25 km là doanh trại lục quân Belvood của bang Virginia. Tại đây, có trụ sở của cơ quan 1127 - tình báo đặc nhiệm thuộc không lực Hoa Kỳ, chỉ huy trưởng là Colla. Hàng ngày, họ gặp gỡ những kẻ đào ngũ từ Liên Xô, Việt Nam và cả những người Mỹ đã từng bị phía Việt Nam bắt giữ, họ lắng nghe, thu nhặt và tổng hợp, phân tích các tin tức tình báo.
Theo tin tức tình báo mới nhất của Mỹ, tính đến đầu năm 1970 có 482 tù binh bị giam giữ tại Đông Nam Á (trong đó 80% tại miền Bắc Việt Nam). Trong đó quá nửa số đó là phi công, ngoài ra còn có 970 người mất tích. Đầu tháng 5 năm 1970, có tin tức cho thấy tại hai trại giam ở phía Tây Hà Nội có những biểu hiện bất thường. Hai trại giam đó, một trại ở Mai Châu cách Hà Nội 50km về phía Tây, trại kia nằm ở Sơn Tây cách Hà Nội 37km.
Vụ tập kích Sơn Tây được đán.h giá là một trong những vụ đột kích đường không nổi tiếng nhất trên thế giới
Qua tin tức tình báo và không ảnh, tình báo Mỹ xác định tại trại Sơn Tây có thể giam giữ tù binh Mỹ, gần đây trại giam này đang được mở rộng, còn xây dựng thêm các chòi canh và tường bao. Ngoài ra còn phát hiện quần áo của tù binh Mỹ giặt phơi được xếp thành hình chữ K (chữ K là ký hiệu có ý nghĩa hãy đến cứu tôi) có vẻ như là lời cầu cứu.
Những dấu hiệu được xếp trên mặt đất có thể được hiểu là thể hiện ý nghĩa có 55 tù binh. Qua phân tích, còn một ám hiệu khác cho thấy có 6 tù binh đang có kế hoạch trốn trại, kèm theo đó là địa điểm yêu cầu được giải cứu. 6 tù binh đó yêu cầu được giải cứu tại sườn núi Ba Vì về phía Lào cách Sơn Tây 13 km về phía Tây Nam. Các tù binh thường được ra ngoài nhằm kiếm củi và chất đốt về cho trại nên đã manh nha nuôi ý định này.
Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tổ chức cuộc giải cứu tù binh tại trại giam Sơn Tây. Ngày 10/6/1970, nhóm kế hoạch gồm 15 người do Blackbourne lãnh đạo tập trung tại Cục Tình báo Quốc phòng, bắt đầu việc lập kế hoạch thực hiện. Ngày 10 tháng 7, Hội đồng Tham mưu trưởng họp phiên đầu tiên với sự tham dự của tân Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân - Thượng tuớng More, vấn đề chủ yếu được đề cập tất nhiên là vấn đề giải cứu tù binh.
Theo kết quả phân tích các bức không ảnh tầm cao của máy bay trinh sát SR-71 và ảnh chụp tầm thấp của máy bay không người lái Buffalo Hunter, cho thấy tình hình như sau: Trại giam Sơn Tây nằm ở giữa đồng lúa cách khu vực dân cư 1,6km về phía Đông Nam; máy bay cỡ lớn thì không được nhưng máy bay trực thăng cỡ nhỏ có thể hạ cánh ngay trong sân trại. Theo giải trình của nhóm kế hoạch, trại giam Sơn Tây có 61 tù binh (họ tên của 61 tù binh đã được xác định) vẫn đang hoạt động, nhưng lúc đó trại giam Mai Châu thì đã đóng cửa.
Tình báo Mỹ nhận định, lực lượng canh gác bố trí trong trại khoảng 45 người; lực lượng vũ trang của ta ở xung quanh Sơn Tây có khoảng 12.000 quân gồm trung đoàn bộ binh 12, trường pháo binh Sơn Tây, một kho quân trang ở thị xã với khoảng 1.000 cán bộ chiến sĩ hậu cần cùng với khoảng 500 bộ đội với 50 xe tại một căn cứ phòng không ở Tây Nam thị xã. Đây là lực lượng ngăn chặn đáng kể khi biệt kích đột nhập.
Nhóm kế hoạch thực hiện đề nghị: Lực lượng tác chiến sẽ xuất phát từ căn cứ Udon bên Thái Lan sang Sơn Tây bằng trực thăng, hoạt động tập kích diễn ra vào ban đêm. Mỹ tính toán các đơn vị ta đóng quân tản mát và ở xa trại giam nên thời gian nhanh nhất để có phản ứng phải mất 30 phút. Vì vậy, biệt kích Mỹ được chỉ đạo tiến hành cuộc đột nhập chỉ trong vòng 26 phút. Và để tránh những đợt gió mùa, thời gian thích hợp cho thực hiện tập kích là từ tháng 10 - tháng 11-1970.
Mô hình trại giam tù binh phi công Mỹ ở Sơn Tây
Sự chuẩn bị của Quân đội Mỹ phải nói rằng rất chu đáo. Đầu tiên là các phi công lái trực thăng tập luyện bay ở độ cao sát ngọn cây và theo đường bay ngoằn ngoèo để khi tác chiến sẽ luồn thật thấp trong thung lũng nhằm vô hiệu radar đối phương. Từ đầu tháng 8-1970, hàng đêm tại căn cứ Eglin, các phi công Mỹ được lựa chọn tham gia chiến dịch miệt mài bay tập mò mẫm trong bóng đêm theo đường bay vạch sẵn từ Udon sang Sơn Tây.
Song song với các phi công, những lính biệt kích được tuyển chọn cũng bước vào một chương trình tập luyện rất công phu, gian khổ. Nhằm chắc chắn hơn nữa cho sự thành công của kế hoạch, các sĩ quan chỉ huy chiến dịch này còn cho dựng một trại giam giống hệt trại Sơn Tây với tỷ lệ 1:1 ngay trên đất Mỹ để cho biệt kích luyện tập thực tế. Hàng ngày biệt kích Mỹ đeo ba lô cùng vũ khí, trang bị chạy hàng chục mấy km, luyện tập cả khoa mục sinh tồn dã ngoại để chuẩn bị cho tính huống xấu nhất là phải rút chạy bằng đường bộ.
Từ ngày 28/9/1970 trở đi, toán biệt kích và không quân luyện tập chung với nhau tại mô hình trại giam theo kịch bản đã được vạch sẵn. Cứ mỗi ngày họ thực hiện 3 cuộc đổ bộ bằng trực thăng và đêm đến lại tập 3 lần nữa. Các biệt kích Mỹ được tập thành thục đến mức có thể bịt mắt mà vẫn di chuyển đúng địa hình thực địa và xạ kích trúng đích theo lệnh chỉ huy. Tất cả các địa hình xung quanh trại giam Sơn Tây cũng được nhóm đặc nhiệm thuộc nằm lòng.
Ngày 6/10/1970, cuộc tổng diễn tập lần cuối cùng có bắ.n đạn thật được tổ chức. Các máy bay trực thăng đã bay một quãng đường dài tượng trưng cho quãng đường từ Thái Lan sang Sơn Tây trước khi đổ biệt kích xuống mô hình trại giam. Do luyện tập quá nhiều, các biệt kích đã thuộc đến từng ngóc ngách cho nên buổi diễn tập thành công không chê vào đâu được. Các viên chỉ huy rất hài lòng.
Để thực hiện cuộc tập kích này, biệt kích Mỹ đã trải qua 170 lần diễn tập với sự tham gia của hơn 100 lính đặc nhiệm, 30 máy bay, gần 20 phi công trực thăng giỏi nhất của Mỹ. Cùng với sự hiệp đồng, chặt chẽ của các tàu sân bay tại Vịnh Bắc bộ, dự tính khả năng thành công của chiến dịch là gần 100%. Nhưng trong quá trình thực hiện, từ sai lầm này đã dẫn đến sai lầm kia, kết quả cuối cùng lại nằm ngoài dự tính của người Mỹ.
(Còn nữa)
Theo Nguyễn Ngọc
An ninh thủ đô
Ly kì vụ Thủ tướng Libya bị bắt Ngày 10/10, truyền thông quốc tế dồn dập đưa tin về vụ Thủ tướng Libya Ali Zeidan bị một nhóm vũ trang "bắ.t có.c". Ngay sau đó khoảng 6 giờ, kênh truyền hình quốc gia Libya chính thức phát đi thông báo cho biết ông Zeidan đã được thả tự do, đang trên đường trở về văn phòng Thủ tướng. Bắ.t có.c hay...