Đa dạng sản phẩm rau quả chế biến gắn với nhu cầu thị trường
Sáng 7/7, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức Diễn đàn kết nối nông sản 970 với chủ đề “Đa dạng hóa sản phẩm rau quả chế biến, bảo quản gắn với yêu cầu của thị trường tiêu thụ”.
Vải trứng Hưng Yên quả to, mẫu mã đẹp, cùi dày, chất lượng ngọt thơm vượt trội. Ảnh minh họa: Mai Ngoan/TTXVN
Tại diễn đàn, những thông tin về công nghệ chế biến, bảo quản rau quả; tiêu chuẩn, quy chuẩn của thị trường các nước nhập khẩu… đã được các đại biểu đưa ra nhằm thúc đẩy hoạt động chế biến, tiêu thụ nông sản giữa các vùng sản xuất đến các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng như xuất khẩu.
Phát triển công nghệ chế biến phù hợp với quy mô
Thông tin về lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, ông Ngô Quang Tú, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, hiện có 157 cơ sở chế biến với công suất đạt gần 1,1 triệu tấn sản phẩm/năm. Nhìn chung quanh năm các nhà máy vẫn thiếu nguyên liệu. Công suất đạt bình quân chỉ khoảng 56 – 60% do khó tập trung nguyên liệu, chế biến theo mùa vụ, chất lượng an toàn thực phẩm chưa đạt được như kích thước, mùi vị, màu sắc, độ đồng đều…
Bên cạnh đó, có hàng nghìn cơ sở sơ chế, chế biến quy mô nhỏ, siêu nhỏ, hợp tác xã, hộ gia đình ở khắp mọi vùng miền với các loại rau quả khác nhau, hình thức khác nhau. Tuy nhiên, những cơ sở, doanh nghiệp chế biến này rất thiếu vốn sản xuất, quy mô vốn rất nhỏ, khó khăn về mặt bằng sản xuất, bảo quản sau thu hoạch kém, thiếu thiết bị tối thiểu (điện, nước, kho lạnh…), dẫn tới tổn thất sau thu hoạch hơn 20%.
Về tỷ trọng sản phẩm chế biến: đồ hộp chiếm 50%, sản phẩm nước quả cô đặc 18%, chiên sấy (12%), nước giải khát (10%), sản phẩm đông lạnh (8%)… Tỷ trọng giá trị sản phẩm rau quả chế biến xuất khẩu so với giá trị xuất khẩu rau quả năm 2020 mới đạt 18%.
Trên cơ sở đó, ông Ngô Quang Tú cho rằng, để tổ chức lại sản xuất, địa phương cần đẩy mạnh liên kết sản xuất, vùng nguyên liệu được kết nối theo chuỗi để đảm bảo nguyên liệu cho chế biến. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật về liên kết để có những chế tài xử phạt, có quy định điều phối các hoạt động liên kết…
Với phần lớn là cơ sở sơ chế, chế biến là nhỏ lẻ, PGS.TS Phạm Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch cho rằng, việc định hướng cho phát triển công nghệ hiện đại, phù hợp với quy mô nhỏ, vừa là điều cần thiết. Có 4 nhóm sản phẩm phù hợp với quy mô nhỏ, vừa là rau quả tươi, rau quả sấy, rau quả đông lạnh và rau quả đồ hộp.
“Nếu chúng ta quan tâm đến khối doanh nghiệp nhỏ, vừa và hợp tác xã thì có thể nâng cao tỷ lệ chế biến và có thể đáp ứng được nhu cầu về đa dạng hóa sản phẩm rau, quả chế biến”, ông Phạm Anh Tuấn chỉ ra.
Ông Phạm Anh Tuấn cho rằng, cần đầu tư và công nghệ phù hợp cho đối tượng này. Để lựa chọn công nghệ và thiết bị, xây dựng nhà xưởng sơ chế, bảo quản, chế biến rau quả phù hợp với quy mô nhỏ, vừa, các đơn vị cần lưu ý các yêu cầu như: xác định đối tượng, sản phẩm, quy mô sản xuất, khả năng đầu tư và thị trường mục tiêu, lựa chọn nhà tư vấn công nghệ thiết bị phù hợp, đầu tư xây dựng nhà xưởng, lắp đặt trang thiết bị, sản xuất thử, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và cuối cùng mới đến đăng ký chất lượng, thương mại hóa sản phẩm.
Video đang HOT
Nắm chắc quy định từng thị trường xuất khẩu
Cập nhật thông báo các biện pháp an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động, thực vật (SPS) liên quan đến rau quả chế biến của một số thị trường trọng điểm 6 tháng đầu năm 2022, ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật Việt Nam (SPS Việt Nam) cho biết, trong nửa đầu năm 2022, các nước thành viên WTO đã có 504 thông báo, tăng 9% so với cùng kỳ.
Điển hình, Nhật Bản đã có 65 thông báo lấy ý kiến và có hiệu lực liên quan đến mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật và thuốc thú y (MRL) trong các sản ph ẩm thực phẩm.
Với thị trường Trung Quốc, nước này không có thông báo thay đổi biện pháp SPS liên quan đến sản phẩm rau quả. Tuy nhiên, doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm rau quả/chế biến sang thị trường Trung Quốc tuân thủ theo các quy định Lệnh 248 và Lệnh 249; các thỏa thuận đã ký giữa hai bên. Đến ngày 7/7, Hải quan Trung Quốc đã phê duyệt cho Việt Nam 2.213 mã sản phẩm của hơn 2.000 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản làm thực phẩm vào thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ phối hợp Việt Nam để xây dựng và phổ biến những quy định liên quan đến Lệnh 248, Lệnh 249 dưới dạng video, clip, nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam đảm bảo thời hạn hoàn thiện hồ sơ đăng ký trước tháng 6/2023, ông Ngô Xuân Nam cho biết.
Về EU, thị trường này đã có 25 thông báo lấy ý kiến và có hiệu lực liên quan đến mức dư lượng tối đa cho phép MRL trong các sản phẩm thực phẩm; trong đó có Thông báo về tăng tần suất lấy mẫu kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu đối với một số quốc gia, trong số đó có Việt Nam về sản phẩm rau gia vị, hạt tiêu và đậu bắp chịu tần suất kiểm tra là 50%, từ ngày 06/01/2022.
Bên cạnh đó, EU cũng đã có 2.251 cảnh báo trên Hệ thống cảnh báo nhanh đối với mặt hàng nông sản thực phẩm và thức ăn chăn nuôi (RASFF). Trong số đó Việt Nam chỉ có 40 cảnh báo (chiếm 1,77%); riêng mặt hàng rau quả có 9 cảnh báo, chiếm 22,5% tổng số cảnh báo đối với Việt Nam.
Ông Ngô Xuân Nam cho biết thêm, EU đặc biệt lưu tâm đến các mức dư lượng tại cả sản phẩm quả tươi lẫn sản phẩm chế biến, đồ khô. Bên lề phiên họp thứ 83 của Ủy ban SPS-WTO mới đây, Đoàn công tác Việt Nam đã có buổi họp song phương với phía EU. Tại buổi làm việc, Việt Nam đã đề xuất giảm tần suất lấy mẫu kiểm tra thanh long Việt Nam (hiện đang là 20%). Hai bên đã thống nhất sẽ rà soát lại toàn bộ số liệu về xuất khẩu thanh long Việt Nam sang thị trường này và đánh giá sự cải thiện về an toàn thực phẩm. Dự kiến cuối năm hai bên sẽ họp đánh giá để giảm tần suất kiểm tra thanh long xuất khẩu sang EU. EU cũng cam kết phối hợp chặt chẽ với Việt Nam để tăng cường thông tin, cũng như thống nhất các biện pháp kiểm soát, thông báo, nhằm thúc đẩy giao thương nông sản.
“Doanh nghiệp cần kiểm soát tốt mức dư lượng tối đa cho phép trong sản phẩm. Đặc biệt lưu ý việc khai báo các chất phụ gia trong chế biến, hay những vấn đề tác động đến cảm quan sản phẩm như dập…”, ông Ngô Xuân Nam khuyến cáo.
Bà Phan Thị Thu Hiền, Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II, Cục Bảo vệ thực vật cho biết, yêu cầu của từng thị trường với nông sản khác nhau. Chẳng hạn, thị trường Mỹ yêu cầu rau quả tươi phải xử lý bằng chiếu xạ; Hàn Quốc, Nhật Bản yêu cầu xử lý bằng hơi nước nóng.
Với EU, ví dụ sản phẩm mận hậu không yêu cầu về phương pháp xử lý kiểm dịch thực vật nào, nhưng cần kiểm soát chặt chẽ về sinh vật gây hại như: sâu đục lá, sâu đục cuống…
Các hợp tác xã, hộ nông dân cần phối hợp cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo, giám sát chặt chẽ mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói đối với nông sản xuất khẩu, đặc biệt là những trái cây, rau ăn lá nằm trong nhóm các thị trường yêu cầu, bà Phan Thị Thu Hiền nhấn mạnh.
Vải trứng Hưng Yên được mùa, được giá
Sau vụ vải lai chín sớm bội thu, người trồng vải Hưng Yên lại tiếp tục đón nhận vụ vải trứng được mùa, được giá.
Đặc biệt, lần đầu tiên quả vải trứng Hưng Yên được xuất khẩu sang châu Âu đang khiến người trồng vải phấn khởi.
Sau vụ vải lai chín sớm bội thu, người trồng vải Hưng Yên lại tiếp tục đón nhận vụ vải trứng được mùa, được giá. Ảnh minh họa: hungyentv
Cung không đủ cầu
Từ đầu tháng 6, các vườn vải trứng tại các huyện Phù Cừ, Ân Thi bắt đầu cho thu hoạch. Đến nay, về cơ bản vải trứng đã cơ bản thu tiêu thụ hết với giá cao.
Theo các nhà vườn trồng vải ở xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, giá vải trứng năm nay trung bình từ 100.000-150.000 đồng/kg, thậm chí có thời điểm lên đến 180.000 đồng/kg.
Theo lý giải của ông Mai Văn Quyết, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến, xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, giá vải cao như vậy là do số lượng vải không đủ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Chính vì thế có thời điểm giá vải đã lên tới 180.000 đồng/kg, cao gần gấp đôi so với đầu vụ.
Ông Mai Văn Quyết cũng cho biết thêm, vải trứng ngày càng được nâng cao chất lượng với quy trình canh tác an toàn hướng tới hữu cơ. Đặc biệt, vải trứng Hưng Yên quả to, vỏ đỏ, ngọt thơm và thanh mát đặc trưng luôn được những người sành thưởng thức tìm mua. Do đó, dù quả vải trứng giá cao gấp nhiều lần so với loại vải thông thường nhưng vẫn được nhiều khách hàng ưa chuộng, mua làm quà biếu.
Ông Đoàn Văn Hiểu, Giám đốc Hợp tác xã vải trứng Hưng Yên ở thôn Bình Nguyên, xã Đa Lộc, huyện Ân Thi cũng cho hay, năm nay, thời tiết thuận lợi nên vải trứng Hưng Yên được mùa, được giá. Từ trước khi thu hoạch, đã có nhiều thương lái đến tận vườn đặt mua. Vải thu hoạch đến đâu tiêu thụ hết đến đó, thậm chí có thời điểm không đủ để bán. Chính vì thế, giá vải càng về cuối vụ càng tăng cao.
Gia đình ông Đoàn Văn Hiểu có hơn 2ha vải trứng; trong đó, có 3,5 sào đã cho thu hoạch, sản lượng đạt 4 tấn, tăng 20% so với vụ trước. Dự kiến vụ vải năm sau vườn vải của gia đình sẽ cho thu hoạch trên toàn bộ diện tích.
Lần đầu tiên xuất khẩu sang châu Âu
Tỉnh Hưng Yên hiện có khoảng 230 ha trồng vải trứng. Loại quả đặc sản này được trồng chủ yếu tại huyện Phù Cừ và một phần diện tích ở huyện Ân Thi. Năm nay, sản lượng vải trứng ở hai địa phương này đạt gần 100 tấn và lần đầu tiên quả vải trứng được xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Số lượng xuất đi chưa nhiều nhưng đây là nguồn động viên lớn đối với người trồng vải ở Hưng Yên.
Ông Mai Văn Quyết cho biết, năm nay hợp tác xã thí điểm xuất khẩu sang châu Âu khoảng 5 tạ vải. Đây là thị trường khó tính, đòi hỏi các tiêu chuẩn rất khắt khe. Để xuất được sang châu Âu, quả vải trứng phải trải qua quy trình kiểm tra ngặt nghèo về an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật... Điều đó đòi hỏi bà con phải tiếp tục chăm sóc cây vải theo quy trình nghiêm ngặt, đảm bảo đúng kỹ thuật để đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu.
Hợp tác xã vải trứng Hưng Yên ở xã Đa Lộc, huyện Ân Thi cũng có 3 tạ vải lần đầu tiên được xuất sang châu Âu. Bà con trồng vải rất phấn khởi vì quả vải đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính.
Ông Đoàn Văn Hiểu, Giám đốc hợp tác xã cho biết, với lần đầu thí điểm xuất khẩu sang châu Âu, các nhà vườn trồng vải rất mong quả vải trứng được quảng bá rộng rãi, được nhiều người tiêu dùng trên thế giới biết đến. Người trồng vải cũng cố gắng chăm sóc đảm bảo đúng kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Như thế, thương hiệu quả vải trứng Hưng Yên sẽ bay xa.
Tiếp tục mở rộng diện tích
Thấy được giá trị của quả vải trứng, các địa phương trồng vải ở Hưng Yên đều có kế hoạch mở rộng diện tích.
Ông Vũ Xuân Thuỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cho biết, khoảng 5 năm trở lại đây, quả vải trứng bắt đầu được nhiều người tiêu dùng biết đến, hiệu quả kinh tế cao và cung không đủ cầu. Chính vì thế huyện Phù Cừ đã chỉ đạo mở rộng diện tích, không chỉ tập trung ở xã Phan Sào Nam mà còn mở rộng ra các xã Minh Tân, Đoàn Đào, thị trấn Trần Cao.
Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cũng khẳng định: huyện đã có chủ trương từ rất sớm đối với cây vải, luôn coi trọng nâng cao chất lượng quả vải. Theo đó, huyện đã chú trọng mở rộng diện tích các vùng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, từ khâu chăm bón cho đến thu hái đều được khuyến cáo và giám sát nghiêm ngặt.
Quy trình bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật phải đảm bảo về liều lượng và thời gian để quả vải đạt chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng. Ngoài ra, huyện Phù Cừ cũng hỗ trợ giống, vốn cho người dân trồng vải, làm cơ sở hạ tầng như đường ra đồng để ô tô có thể vận chuyển thuận lợi mỗi khi vào vụ.
Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cho biết thêm, hiện nay ngành nông nghiệp huyện đang thí điểm ghép mầm vải trứng trên gốc vải lai chín sớm đối với những diện tích trồng mới; đồng thời tập huấn, chuyển giao kỹ thuật thâm canh vải, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp với nhà vườn, hợp tác xã để tiêu thụ quả vải.
Huyện Phù Cừ hiện có khoảng 220 ha trồng vải trứng; trong đó có khoảng gần 100 ha đang cho khai thác quả. Nếu trồng theo phương pháp truyền thống, cây vải trứng sẽ khó đậu quả, năm được mùa năm mất mùa. Chính vì thế, nhiều hộ nông dân chăm sóc cây vải trứng theo phương pháp kỹ thuật mới với quy trình VietGAP, bảo đảm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Các nhà vườn trồng vải cũng cho biết, vụ vải năm sau diện tích cho thu hoạch sẽ cao hơn và dự kiến số lượng vải trứng đáp ứng ra thị trường sẽ nhiều hơn.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Hợp tác công tư sẽ tạo đột phá trong nông nghiệp công nghệ cao Liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV về xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa, phát triển thị trường nông sản, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho biết, đầu tư theo cơ chế hợp...