Cựu phi hành gia NASA hé lộ bằng chứng bí ẩn về UFO
Một cựu phi hành gia của NASA tuyên bố ông có bằng chứng có thể giải đáp được bí ẩn UFO gây tranh cãi trong “sự cố Tether” năm 1996.
Một cựu phi hành gia của NASA lần đầu tiên phát biểu công khai về một trong những trường hợp UFO khét tiếng lịch sử của 20 năm trước đây.
Bí ẩn UFO 20 năm sẽ được giải đáp? Hình minh họa.
Ông này khẳng định có “bằng chứng thuyết phục” để giải quyết bí ẩn nổi tiếng trong những năm 1990.
Cựu phi hành gia của NASA, Tom Jones, tiết lộ bằng chứng về UFO20 năm về trước.
Tom Jones, một cựu phi hành gia làm việc trên bốn con tàu không gian trong hơn 11 năm, ông đã từng có nhiều kinh nghiệm tìm kiếm bí ẩn của UFO trước khi gia nhập NASA.
Ông cho biết, bằng chứng của ông có thể giải quyết tất cả những bí ẩn của sự cố “UFO Tether Incident” (Sự cố cột dây UFO) nổi tiếng năm 1996.
Câu chuyện kỳ bí này liên quan đến một vệ tinh lạ được buộc vào tàu không gian con thoi. Đây là một thí nghiệm nhằm phục vụ công tác nghiên cứu nhưng bất ngờ bị phá hỏng.
Hình ảnh nghi vấn UFO xuất hiện trong thí nghiệm Tether gây tranh cãi.
Qua thước phim được quay lại bởi các phi hành gia trên tàu, người xem có thể thấy sợi dây buộc bị hàng trăm UFO bao vây, chúng xuất hiện giống như những sinh vật bơi lội trong lòng biển.
Nhưng các nhà lý luận về thuyết âm mưu sẽ không hài lòng với các bằng chứng thuyết phục nào đó của ông Jones về cảnh tượng tuyệt đẹp kia.
Trong phần trả lời phỏng vấn với tạp chí Smithsonian Air & Space, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra là các phi hành gia khác đã nhìn thấy “chuyện lạ UFO” kia ngay khi ở trên quỹ đạo hay không?
Theo lý thuyết âm mưu, có những quan điểm cho rằng, các phi hành gia NASA và nhân viên đã nhìn thấy bằng chứng về UFO và người ngoài hành tinh. Một trong số họ đã “thổi còi”, còn những người khác vẫn không hé răng vì sợ những gì sẽ xảy ra.
Những người đã nói công khai bao gồm Edgar Mitchell, phi hành gia thứ sáu đi bộ trên Mặt Trăng, người sau đó đã nói rằng ông có bằng chứng về chủng tộc người ngoài hành tinh đã tiếp xúc với chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên, ông Jones không bị thuyết phục bởi lời khai của ông Mitchell và những lời thổi phồng khác.
Một bức ảnh tĩnh từ thước phim trong Thí nghiệm Tether vào năm 1996 của NASA.
Sự thật về UFO trong sự cố Tether
Ông Jones nói rằng những lời giải thích cho hiện tượng bí ẩn đó là đơn giản hơn. Ông viết: “Các nhà du hành đã không nhìn thấy bất kỳ bằng chứng về sự sống ngoài hành tinh…
Các báo cáo về vật thể bay không xác định trong những hình ảnh mà tàu con thoi thu được đã cho thấy tinh thể băng, các mảnh vỡ quỹ đạo trôi, tia chớp, hoặc các vệt thiên thạch chuyển động trong bầu không khí đen tối bên dưới.”
Cựu phi hành gia cũng cho biết thêm rằng, chính việc tìm kiếm cuộc sống ngoài Trái Đất và các nền văn minh khác trong vũ trụ đã gây khó khăn cho việc tìm bằng chứng về các nền văn minh ngoài hành tinh.
Tiết lộ bằng chứng có thể giải thích bí ẩn UFO 20 năm trước
Ông Jones đưa ra bằng chứng kết luận của ông về “sự cố Tether” năm 1996 từ các báo cáo khối lượng mà phi hành đoàn của ông nhìn thấy UFO.
Ông chia sẻ: “Tôi đã làm việc trên tàu con thoi Columbia – STS-80 – và thậm chí còn làm một blog cá nhân. Có phải UFO ghé thăm tàu con thoi Columbia? Đó là những truy vấn từ những người xem video bởi vì lúc đó chúng tôi vừa trở về từ nhiệm vụ trong năm 1996.”
Về vụ tai nạn Tether gây chấn động suốt 20 năm qua, ông Jones chia sẻ rằng không có phi hành gia khác nào tâm sự với ông là nhìn thấy người ngoài hành tinh cả. Ông Jones nói thêm: “Chắc chắn, không có gì trong con đường của phi thuyền không gian.
Bây giờ, tôi biết rằng đã có một vài phi hành gia trong quá khứ, những người đã lên tiếng và nói rằng họ chỉ biết từ những người khác có bằng chứng về UFO và tàu vũ trụ đã viếng thăm Trái Đất…
Họ cho rằng rất có thể là chính phủ đã giữ thông tin bí mật đó lại. Vào thời điểm đó, có thể họ không thể giải thích được bí ẩn kỳ bí kia.”
Một số nhà nghiên cứu tin rằng nguyên nhân đằng sau hiện tượng kỳ lạ xảy ra xung quanh dây cột và vệ tinh có thể là do một sự can thiệp không lường trước của các trường năng lượng được sản sinh ra từ bức xạ mạnh mẽ của những UFO chưa được biết đến này.
Tuy nhiên, có lẽ đây vẫn là một trong những sự cố không gian còn gây nhiều tranh cãi nhất từ trước đến nay. Do đó, bí ẩn về chúng lại càng ly kỳ và hấp dẫn đối với những người quan tâm.
Bằng chứng mới của cựu phi hành gia Tom Jones được coi là môt gợi ý mới cho công cuộc tìm kiếm sự sống ngoài hành tinh. Hơn nữa, nhận định từ một người có thâm niên nghiên cứu về UFO như ông thì có độ tin cậy khá cao.
Nguyễn Hằng
Theo Trí thức trẻ
1001 thắc mắc: Vì sao phóng tàu vũ trụ phải dùng tên lửa nhiều tầng?
Các con tàu lên mặt trăng cần có tốc độ 11,2 km/s, còn muốn bay tới các hành tinh khác tốc độ phải lớn hơn nữa. Làm thế nào để đạt tốc độ đó? Chỉ có tên lửa đẩy mới đảm đương nổi việc này.
Chỉ khi đạt được tốc độ bay 7,9 km/s thì vệ tinh nhân tạo hay tàu vũ trụ mới không rơi trở lại mặt đất. Các con tàu lên mặt trăng cần có tốc độ 11,2 km/s, còn muốn bay tới các hành tinh khác tốc độ phải lớn hơn nữa. Làm thế nào để đạt tốc độ đó? Chỉ có tên lửa đẩy mới đảm đương nổi việc này.
Muốn làm cho một vật thể chuyển động với tốc độ 7,9 km/s để thoát khỏi sức hút của trái đất, đòi hỏi phải dùng một năng lượng lớn. Một vật nặng 1g muốn thoát khỏi trái đất sẽ cần một năng lượng tương đương điện năng cần thiết để thắp sáng 1.500 bóng đèn điện 40 W trong 1 giờ.
Mặt khác, tên lửa bay được là nhờ vào việc chất khí phụt ra phía sau tạo nên một phản lực. Khí phụt ra càng nhanh, tên lửa bay càng chóng. Muốn đạt được tốc độ bay rất lớn, ngoài đòi hỏi phải có tốc độ phụt khí rất cao ra, còn phải mang theo rất nhiều nhiên liệu. Nếu tốc độ phụt khí là 4.000 m/s, để đạt được tốc độ thoát ly là 11,2 km/s thì tên lửa phải chứa một số nhiên liệu nặng gấp mấy lần trọng lượng bản thân.
Các nhà khoa học đã cố gắng giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng. Làm sao để trong quá trình bay, cùng với sự tiêu hao nhiên liệu sẽ vứt bỏ được những bộ phận không cần thiết nữa, giảm nhẹ trọng lượng đang tiếp tục quá trình bay, nâng cao tốc độ bay. Đó chính là phương án sử dụng tên lửa nhiều tầng. Hiện nay phóng vệ tinh nhân tạo hoặc tàu vũ trụ vào không gian đều sử dụng loại tên lửa này.
Tên lửa nhiều tầng có ít nhất hai tên lửa trở lên, lắp liên tiếp nhau. Khi nhiên liệu ở tên lửa dưới cùng hết, nó tự động tách ra và tên lửa thứ hai lập tức được phát động. Khi tên lửa thứ hai dùng hết nhiên liệu, nó cũng tự động tách ra và tên lửa thứ ba tiếp đó được phát động... cứ như vậy sẽ làm cho vệ tinh hoặc tàu vũ trụ đặt ở tầng trên cùng đạt được tốc độ từ 7,9 km/s trở lên để bay quanh trái đất hoặc thoát khỏi trái đất.
Dùng tên lửa nhiều tầng tuy có thể giải quyết vấn đề bay trong vũ trụ nhưng tiêu hao nhiêu liệu rất lớn. Giả sử chúng ta dùng tên lửa 4 tầng để đưa tàu vào không gian, tốc độ phụt khí của mỗi tầng này là 2,5 km/s, tỷ lệ giữa trọng lượng nhiên liệu và vỏ là 4/1, như vậy muốn cho một con tàu nặng 30 kg ở tầng cuối đạt được tốc độ 12 km/s thì trọng lượng toàn bộ tên lửa và nhiên liệu khi bắt đầu phóng phải tới trên 1.000 tấn.
Ngày nay, các tàu không gian còn có thể được nâng lên bởi các tên lửa đẩy gắn ở bên sườn. Chẳng hạn thế hệ tàu Ariane 5.
Tàu con thoi - Chương trình không gian tốn kém
Tàu con thoi, là một hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp của trái Đất có thể tái sử dụng, được vận hành bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA). Tên chính thức của chương trình là Space Transportation System (STS), được lấy từ một kế hoạch năm 1969 cho một hệ thống tàu vũ trụ có khả năng tái sử dụng.
Chương trình tàu vũ trụ con thoi của Mỹ được khai sinh vào năm 1972 dưới thời Tổng thống Mỹ Richard Nixon nhằm thực hiện các chuyến bay đưa người vào vũ trụ. Hình thành từ hơn 2,5 triệu linh kiện khác nhau, tàu vũ trụ con thoi được đánh giá là cỗ máy phức tạp nhất từng được con người tạo ra. Các tàu con thoi của Mỹ chính thức đi vào hoạt động từ năm 1982.
Trong chương trình tàu con thoi của Mỹ, đã có 6 tàu con thoi được chế tạo. Chiếc đầu tiên là Enterprise chỉ dùng cho mục đích thử nghiệm. 5 con tàu còn lại được đưa vào hoạt động là Columbia, Challenger, Discovery, Atlantis và Endeavour. Trong số này, Challenger là con tàu xấu số đã bị vỡ tung chỉ 73 giây sau khi phóng vào năm 1986, còn Columbia thì gặp nạn khi trở lại Trái đất vào năm 2003.
Tàu con thoi được phóng tổng cộng 135 lần từ năm 1981 đến năm 2011, và phóng từ Trung tâm vũ trụ Kennedy (KSC) ở Florida, Hoa Kỳ. Các nhiệm vụ của tàu con thoi đã phóng vệ tinh, tàu thăm dò, và Kính viễn vọng không gian Hubble; thực hiện các thí nghiệm khoa học vũ trụ; và tham gia vào nhiệm vụ xây dựng và bảo dưỡng Trạm vũ trụ Quốc tế. Tổng cộng thời gian bay của đội tàu con thoi là 1322 ngày, 19 giờ, 21 phút và 23 giây.
Tàu con thoi thực ra có 3 thành phần bao gồm tàu vũ trụ / trạm quỹ đạo (OV - Orbiter Vehicle), bộ đôi tên lửa đẩy nhiên liệu rắn có thể thu hồi (SRBs - Solid Rocket Boosters), và bình nhiên liệu ngoài (ET - External Tank) có chứa khí hi-dro lỏng và ôxy lỏng.
Tàu con thoi được phóng thẳng đứng, như một tên lửa thường, với hai tên lửa được phóng song song với 3 động cơ chính của tàu vũ trụ, được bình nhiên liệu ngoài cung cấp nhiên liệu.
Bộ đôi tên lửa được thả ra trước khi tàu vũ trụ đạt tới quỹ đạo, và bình nhiên liệu ngoài được vứt bỏ trước khi tàu bắt đầu quá trình đạt tới quỹ đạo, lúc ấy tàu sẽ sử dụng đến 2 động cơ điều khiển quỹ đạo (OMS - Orbital Manuevering System).
Khi kết thúc nhiệm vụ, tàu sẽ sử dụng tiếp 2 động cơ điều khiển quỹ đạo để rời quỹ đạo và tái nhập vào bầu khí quyển. Tàu sẽ lượn tới một đường băng hạ cánh trên Hồ khô Rogers ở Căn cứ Không Quân Edwards ở California, hoặc tại Khu hạ cánh Tàu con thoi ở Trung tâm vũ Trụ Kennedy.
Nếu tàu hạ cánh ở Edwards, tàu sẽ được bay trở lại Trung tâm vũ trụ Kennedy trên Máy bay chở Tàu con thoi, một chiếc Boeing 747 đã được sửa đổi.
Tàu vũ trụ đầu tiên, Enterprise, được chế tạo cho những chuyến bay thử nghiệm hạ cánh và tiếp cận và hoàn toàn không đủ khả năng cho một chuyến bay trên quỹ đạo ngoài vũ trụ. 4 tàu vũ trụ đầu tiên được chế tạo cho chuyến bay vũ trụ là: Columbia, Challenger, Discovery, và Atlantis.
Trong số này, Challenger và Columbia đã bị phá hủy trong tai nạn năm 1986 và 2003 theo thứ tự, và tổng cộng 14 phi hành gia đã thiệt mạng. Tàu vũ trụ thứ 5, Endeavour, được chế tạo vào năm 1991 để thay thế tàu Challenger. Tàu con thoi chính thức kết thúc và về hưu ở nhiệm vụ cuối cùng của tàu Atlantis vào ngày 21 tháng 7 năm 2011.
Chương trình tàu con thoi là một trong những chương trình không gian tốn kém lớn cho nước Mỹ. Chi phí cho mỗi lần phóng tàu con thoi lên đến 500 triệu USD bao gồm chi phí cho hàng tháng bảo trì và chuẩn bị các bước giữa hai lần bay, các hệ thống thủy lực và điện tử dùng trong bệ phóng... Tổng cộng trong 30 năm hoạt động, chương trình tàu con thoi đã ngốn đến 196 tỉ USD từ ngân sách liên bang Mỹ.
Trung tâm Không gian Kennedy ở mũi Canaveral, bang Florida (Mỹ), luôn là điểm đáp ưu tiên hàng đầu của tàu con thoi. Ở đây có một trong những đường băng lớn nhất thế giới: dài 4.472m, ngang 91,4m, mỗi đầu có thêm đoạn đường an toàn dài 305m. Nếu điều kiện không cho phép, tàu con thoi phải đáp xuống căn cứ không quân Edwards ở bang California, hoặc có thể ở một căn cứ khác của Mỹ trên thế giới. Tuy nhiên, chi phí sẽ tăng, chẳng hạn nếu tàu con thoi đáp ở căn cứ Edwards, NASA phải tốn 1,7 triệu USD để đưa nó về mũi Canaveral.
Phóng tàu con thoi lên vũ trụ. Clip nguồn youtube
Theo Tiền phong
NASA gửi những hình nộm đầu tiên bay quanh Mặt trăng để đo bức xạ Hai hình nộm có tên là Helga và Zohar sẽ tham gia chuyến đi này và sẽ đi xa hơn bất kỳ con người nào trước đây trên một con tàu vũ trụ. Nhấn để phóng to ảnh Bộ đồ AstroRad đang được nghiên cứu. Hai người nộm sẽ ngồi trên ghế hành khách với nhiệm vụ quan trọng là chịu các tác...