Cưới xin thời bao cấp
Tiệc cưới chủ yếu là nước chè, ít bánh kẹo sơ sài. Quà cưới hồi đó đâu có phong bì mà mừng. Toàn chậu nhôm, bát đĩa, phích nước, nồi niêu xoong chảo. Tàn tiệc cưới, cô dâu chú rể phải kiếm bao bì gom quà mừng lại vác về.
LTS: Thời bao cấp mới chấm dứt hơn 20 năm nhưng với thế hệ trẻ ngày nay, nó như một câu chuyện đã xảy ra từ rất lâu bởi họ chỉ biết đến cái thời tem phiếu qua lời kể của ông bà, cha mẹ. Còn với những người từng sống dưới thời bao cấp, nó lại là những ký ức không thể nào quên. Qua câu chuyện của ông chủ cửa hàng mậu dịch mới mở tại Hà Nội cùng những người đã từng sống dưới thời bao cấp, chúng tôi đăng tải loạt bài “Những câu chuyện thời bao cấp” với mong muốn phần nào làm sống dậy một thời gian khó nhưng bình dị ấy. Chúng tôi mong nhận được bài viết và chia sẻ của độc giả về chủ đề này.
Tình yêu, đám cưới thời bao cấp
Nhà văn Lê Lựu kể: Hồi lấy nhà tôi, sau ngày cưới 2 tháng mới mua được một chiếc chiếu mới và một chiếc màn. Mượn được chiếc giường một của cơ quan. Nhưng khổ nỗi lại là màn đôi và chiếu đôi giăng ra rộng quá. Vậy nên đành buộc túm màn vào, còn chiếu thì gấp đôi lại trải ngang ra. Thành thử chiếu thừa chiều rộng nhưng trải lên giường lại thiếu chiều dài.
“Nhà thơ Phạm Tiến Duật, một nhà thơ nổi tiếng như thế nhưng ông ấy khổ lắm!” – tác giả “Thời xa vắng” lim dim đôi mắt.
Nhà thơ lấy vợ nhưng không có nhà để ở. Ông ấy ở nhờ gian bếp đằng sau nhà vợ trong ngõ Yên Thế (đường Nguyễn Thái Học). Căn phòng bẩn thỉu hôi hám. Hai vợ chồng và hai đứa con ngủ trên cùng một chiếc phản.
Nhà văn Lê Lựu không nhịn được cười khi kể về một đồng nghiệp. Gia đình đó cũng có 4 người ngủ trên một giường. Nửa đêm, hai vợ chồng âu yếm nhau. Bỗng một đứa con ngóc đầu dậy. Ông chồng ngượng quá ấn đầu nó xuống thì thằng kia kêu lên: “Nó không xem, bố tống cổ nó ra ngoài đi!”
Có lẽ món “ngon nhất” cho đám cưới là tiếng hát ca của bạn bè đến góp vui
Nhiều người vẫn nhớ, hồi đó, cuộc sống vốn đói nghèo, đến chuyện tình yêu, lấy vợ lấy chồng cũng cơ cực không kém.
Ông Nguyễn Văn Hảo (ở Nghệ An) quả quyết: “Ngày đó cô nào bán ở cửa hàng mậu dịch là có giá nhất!”
Đưa bạn gái về nhà ra mắt, nếu giới thiệu là nhân viên mậu dịch, gia đình sẽ rất quý. Hoặc chí ít dù trai hay gái, có người nhà liên quan đến quầy mậu dịch, sẽ rất có giá.
Nếu con mình lấy được những người này, mỗi lần đi mua lương thực, thực phẩm đỡ phải xếp hàng, lại được ưu tiên loại hàng tươi ngon nhất. Có câu “nhất thân, nhì quen” là vì thế.
Ông Hảo còn nhớ như in hồi ông cưới vợ. Vốn là bộ đội ở xa nên ông tranh thủ về phép để cưới vợ. Muốn tổ chức đám cưới cho vui vẻ mà trong nhà khi đó không còn gì ăn. Ông và vợ chạy vạy mãi mới ra cửa hàng mậu dịch mua được mấy lạng thịt.
Video đang HOT
Ngày cưới, bạn bè đến chúc mừng, cỗ bàn chủ yếu là nước chè, ít bánh kẹo sơ sài. Quà cưới hồi đó đâu có phong bì mà mừng. Toàn chậu nhôm, bát đĩa, phích nước, nồi niêu xoong chảo. Tàn tiệc cưới, cô dâu chú rể có khi phải kiếm bao bì gom quà mừng lại vác về.
Sống trong thời kỳ khổ cực như vậy, món ngon nhất cho đám cưới có lẽ là tiếng hát ca của bạn bè đến góp vui.
Giáo sư Văn Như Cương thèm rau muống
Cuộc sống gia đình, nhà nào cũng khó khăn thiếu thốn. Nhà giáo sư Văn Như Cương cũng vậy. Vì thế, vợ chồng ông phải nuôi thêm con lợn để tăng chút thu nhập. Tính ra tiền bán lợn ngang tiền lương của ông hồi đó (lương của phó tiến sĩ). Bởi vậy mà giáo sư thường nói đùa với bạn bè rằng, nhà ông có 2 phó tiến sĩ.
Hồi đó, giáo sư Cương chỉ thèm được ăn rau muống cho thỏa thích mà cũng không được. Một lần, có người phụ nữ đi ngang qua nhà ông, hỏi mua chó. Chả là gia đình giáo sư có nuôi một con chó cái vừa đẻ lứa đầu tiên được 6 con. Vốn không thích chó, chỉ muốn có ai xin mà cho bớt đi nên ông đồng ý cho bà ta mấy con mà không cần lấy tiền. Người phụ nữ mừng lắm, cảm ơn rối rít: “Tôi bán rau muống ở cửa hàng mậu dịch Cầu Giấy. Thầy và cô cứ qua mà mua, tôi để phần cho, không phải xếp hàng đâu”.
Từ đó, hầu như ngày nào, nhà ông Cương cũng có rau muống để ăn.
Một hôm có ông bạn đến chơi, cảnh báo giáo sư Cương: “Công an đang để ý cậu đấy! Họ đang nghi vấn tại sao ngày nào cậu cũng mua rau muống về ăn? Lương cậu bao nhiêu mà mua được rau muống ăn thường xuyên thế?”
“Nhưng tớ mua rau muống ở cửa hàng mậu dịch chứ có mua chợ đen đâu. Bó rau muống giá chỉ một hào mà!”, GS giải thích với ông bạn.
Nói vậy nhưng giáo sư cũng mất mấy ngày bồn chồn, thấp thỏm. May mà không có chuyện gì xảy ra. Khi đó, ông tự nhủ “chắc ông bạn đùa mình?!”
Lê Lựu nhớ Nguyên Hồng
Đang ngồi nói chuyện, nhà văn Lê Lựu bỗng bật khóc rưng rức bởi nhớ tới cố nhà văn Nguyên Hồng. Hồi đó ông cùng cụ Nguyên Hồng và nhà văn Tô Hoài vẫn thường xuyên qua lại với nhau. Ông tự nhận mình là học trò của nhà văn Nguyên Hồng.
Tác giả của “Thời xa vắng” còn nhớ, năm 1972, ông đi chiến trường. Trước khi đi, nhà văn Tô Hoài mời ông và cụ Nguyên Hồng ăn một bữa tại nhà hàng sang nhất Hà Nội hồi đó, nằm ở đường Tràng Tiền.
Ăn xong ra về, nhà văn Tô Hoài đi trước đến gần đường Tràng Thi, bỗng thấy cụ Nguyên Hồng đuổi theo gọi với: “Ông Tô Hoài ơi! Ông Tô Hoài ơi!”. Nhà văn Tô Hoài dừng lại, cụ Nguyên Hồng liền đưa cho mấy mẩu bánh mỳ, bảo rằng mang về cho các cháu.
Nhớ lại ngày cụ Nguyên Hồng mất, nhà văn hơn 70 tuổi bỗng khóc to. Ông kể: “Đó là năm 1982, khi đó tôi đang làm thư ký tòa soạn báo Quân đội Nhân dân. Nghe tin cụ Nguyên Hồng qua đời, tôi vội mượn xe cơ quan phóng lên Bắc Giang cùng mấy nhà văn khác. Lên đến nơi, hỏi mới biết, nhà cụ lúc đó không còn hột gạo nào cả. Sau đó chúng tôi mới sang mấy nhà hàng xóm hỏi vay được mấy đấu gạo về làm đám ma cho cụ”.
Theo 24h
Bi hài xếp hàng thời bao cấp
Thời bao cấp, hàng hóa khan hiếm nên mua gì ở cửa hàng mậu dịch cũng đều bị hạn chế số lượng.
Vào một buổi trưa nắng, Giáo sư Văn Như Cương đạp xe từ trường về nhà. Qua cửa hàng mậu dịch Cầu Giấy (Hà Nội), ông chợt thấy có rất nhiều phụ nữ đứng xếp hàng trước quầy.
Dao cạo râu cũng xếp hàng
Trông vẻ mặt ai cũng hớn hở, thấy lạ, giáo sư dừng xe lại hỏi: "Các chị xếp hàng mua gì đấy?" Một chị nhận ra nhà giáo nên nhanh nhẩu: "Xếp hàng mua dao cạo râu thầy ạ!
Giáo sư thắc mắc tại sao mua dao cạo râu mà lại toàn phụ nữ xếp hàng? Hỏi thêm vài câu mới biết, thì ra hôm nay cửa hàng mậu dịch có đợt hàng dao cạo râu mới về nên mở cửa bán theo tiêu chuẩn cho mỗi người một cái. Có người xếp hàng mua dao hộ chồng, có người là "con phe" mua ra ngoài để bán lại kiếm lời.
Giáo sư Cương vội chen chân bước lại gần quầy hàng, mấy chị em phụ nữ cũng nhường lối cho ông. Đến nơi, ông nói với cô mậu dịch viên: "Cô làm ơn bán cho tôi một hộp?" Cô mậu dịch viên trố mắt: "Mỗi người chỉ được mua một cái". "Cô cứ bán cho tôi một hộp?!".
Lần này cô mậu dịch viên tỏ vẻ khó chịu: "Đã bảo chỉ được mua một cái. Anh mua một hộp để mang ra ngoài bán à?"
Giáo sư Cương nhẹ nhàng chỉ vào mặt mình: "Cô trông tôi có giống bọn đầu trộm đuôi cướp, hay dân con phe chợ đen không? Râu tôi nhiều thế này, chưa cạo dạo đã mòn rồi. Không lẽ cao một bên, trừ lại một bên"
Lúc này mấy người đằng sau cũng kêu lên: "Đúng đấy! Bán cho ông ấy đi!"
Kết quả, giáo sư Cương đã được cô mậu dịch viên bán cho một hộp dao cạo râu.
Giáo sư Văn Như Cương (Ảnh: Lao động)
Nhưng đó cũng chỉ là một lần hy hữu giáo sư có nhiều dao cạo râu như vậy. Ông vốn nhiều râu, hồi đó dao cạo râu lại hiếm. Thành thử ông thường xuyên phải để râu. Có lần, bị cán bộ trường phê bình rằng, như vậy là làm xấu hình ảnh trước học sinh, ông bảo: "Tôi có muốn để vậy đâu, nhưng vì không có dao cạo". Lâu dần, ông để luôn râu như vậy không thèm cạo nữa.
Nhà văn Lê Lựu vẫn không quên những lần xuống cửa hàng mậu dịch ở phố Ngọc Hà đứng xếp hàng cả nửa ngày trời. Đến khi ông mua được mấy con cá thì đã mủn hết, đem về lấy mỗi phần xương để kho.
Ông cười nói: "Thời gian đứng xếp hàng có người tranh thủ sáng tác được cả văn thơ". Một trong những lần xếp hàng như thế, nhà văn đã viết được đoạn đầu tiểu thuyết "Mở rừng". Cũng trong những ngày tháng này, nhà văn Lê Lựu đã viết tác phẩm nổi tiếng "Thời xa vắng".
Nhà văn Lê Lựu (Ảnh: Công an nhân dân)
Xếp hàng cả buổi, về tay không
Chúng tôi đã có dịp ôn lại kỷ niệm với rất nhiều người từng sống trong thời kỳ bao cấp. Ông Nguyễn Văn Long (60 tuổi, ở Cầu Giấy, Hà Nội) có lẽ là người nhớ tỉ mỉ nhất những câu chuyện một thời tem phiếu.
Ông Long kể: Nói đến thời bao cấp là nhắc đến thời kỳ tem phiếu và phân phối. Thời bao cấp bắt đầu ở miền Bắc từ những năm kháng chiến chống Mỹ (1965). Nhưng sau giải phóng miền Nam (1975), chế độ tem phiếu được áp dụng toàn quốc, từ thành phố tới nông thôn. Tuy nhiên, nông thôn có cái khác là phân chia theo công điểm ở hợp tác xã.
Đối với cán bộ, công nhân viên chức, những loại hàng hóa nhu yếu phẩm gồm lương thực, thực phẩm như gạo, thịt, cá... đều phải mua bằng sổ và tem phiếu theo định mức. Mỗi gia đình được cấp cho một sổ gạo mỗi năm 12 tháng ghi khẩu phần của tất cả thành viên trong nhà.
Bố mẹ là cán bộ, viên chức mỗi tháng được mua 13,5kg, nếu là công nhân lao động trực tiếp có thể nhiều hơn vài ba kg. Trẻ con tùy độ tuổi có thể được 4 hoặc 6kg...
Còn tem phiếu mua thực phẩm, người lớn được 0,5kg thịt/tháng, trẻ em là 0,3kg. Một số nhu yếu phẩm khác như chất đốt, xà phòng, mỳ chính... đều có tem phiếu quy định riêng nhưng rất ít ỏi.
Chuyện cơ cực nhất của những người sống trong thời kỳ tem phiếu là phải xếp hàng mua lương thực, thực phẩm tại các cửa hàng mậu dịch. Người thì đông, các cửa hàng mậu dịch lại ít. Bởi vậy mà trước cửa hàng, lúc nào người cần mua lương thực cũng xếp hàng nối đuôi nhau dài dằng dặc như chơi trò rồng rắn. Có những người nhà lỡ hết gạo hoặc có công buổi giỗ chạp, muốn mua được sớm phải đến đứng từ 3-4h sáng, thậm chí nửa đêm. Gặp hôm nhiều người cùng "tư tưởng lớn", khi trời còn tối thui, đã đến xếp hàng đứng, ngồi vật vờ trước cửa hàng mậu dịch như những bóng ma.
Đứng xếp hàng lâu thế nhưng chắc gì đã mua được. Chờ mãi mới đến lượt mình thì cô nhân viên mậu dịch dõng dạc tuyên bố hết hàng rồi đóng sập cửa xuống. Tất cả những người còn lại đành lủi thủi quay lưng ra về trong sự mệt mỏi rã rời. Ngày mai, họ lại ra xếp hàng...
Câu "có tiền mua tiên cũng được" ít nhất là không thể đúng ở thời bao cấp. Thời bao cấp, sổ gạo mới là thứ quan trọng nhất. Nếu lỡ "bảo bối" này thất lạc thì cả gia đình nhịn đói. Nhịn đói không phải một ngày hay một tháng mà có khi đến dăm ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn sổ này thời đó khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại cứ thế mà chạy vạy, vay mượn bạn bè, làng xóm cố sống cho qua.
Theo 24h
Thời bao cấp: Nghiện bia vì phân phối Người ta thường bảo "hơn nhau tấm áo manh quần, cởi ra bóc trần ai cũng như ai". Vậy nhưng, ai sống ở thời bao cấp mới biết, đến tấm áo manh quần cũng chẳng ai hơn ai. Bởi số vải được phân phối bằng nhau hết. LTS: Thời bao cấp mới chấm dứt hơn 20 năm nhưng với thế hệ trẻ ngày...