Cuộc huyết chiến với cọp dữ ở sân nhà
Đến nay, ông Nguyễn Nãi đã bước qua t.uổi 85 và là người duy nhất còn lại của phường săn cọp được thành lập theo chỉ dụ đặc biệt của vua Bảo Đại.
Gần 40 năm cuộc đời gắn liền với những cuộc săn đầy nguy hiểm, những lần theo dấu chân vượt núi, xuyên rừng, lần giáp mặt hổ chúa gieo bao nỗi khiếp sợ, tên t.uổi ông trở thành một huyền thoại.
Những năm đầu thế kỷ trước, vùng núi Tiên Cảnh còn hoang sơ, bốn bề rừng cây rậm rạp. Màn đêm buông xuống, sau những tàn cây rậm rạp, đôi mắt xanh biếc của “ông ba mươi” lại thoắt ẩn, thoắt hiện báo hiệu cuộc tìm mồi. Hổ không chỉ kiếm ăn trên rừng. Loài ác thú ấy còn về tận thôn làng, gây nên bao tai họa và cả nỗi khiếp đảm. Lớn lên trong những ngày tháng ấy, ông Nguyễn Nãi đã tận mắt chứng kiến bao câu chuyện kinh hoàng và cũng rất đỗi kỳ lạ liên quan đến loài ác thú này.
Dũng sĩ Nguyễn Nãi và ngọn giáo dùng săn hổ. Ảnh: T.G
Tận mắt nhìn hổ dữ bắt người
Vùng núi Tiên Cảnh xưa kia là chốn núi rừng hoang vu, cây cối rậm rạp, dân cư sống thưa thớt. Họa hoằn lắm. người ta mới thấy vài nóc nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa đại ngàn. Thiên nhiên thống trị nên cả những loài thú hiền lành như hươu, nai… cũng thường xuyên mò về làng ăn cây cối hoa màu. Dân làng không sợ những con vật ấy, nhưng điều khiến mọi người khiếp đảm, là bước chân của các loại thú ăn cỏ này lại vô tình dẫn đường cho hổ dữ đi theo tìm mồi. Những đêm khuya thanh vắng, người dân bảo nhau cài chặt then cửa không dám ra ngoài. Trẻ con nằm ríu lại, nép sát tường run rẩy khi nghe tiếng “ông ba mươi” gầm vang phía bìa rừng.
Nỗi sợ hãi ấy đã khiến người dân Tiên Cảnh tôn sùng loài ác thú này như thần thánh. Mỗi dịp lễ tết, nhà nhà lại dành riêng ra một mâm cỗ để cúng “các ông”. Ông Cảnh bảo: “Trong mâm cỗ ấy không thể thiếu thịt một con vật nuôi trong nhà, bởi người ta tin “chúa sơn lâm” nhận lễ rồi sẽ tha cho người làng đi rẫy hay lên rừng săn b.ắn, lượm củi”. Nhấp chén trà nóng, ông Cảnh bồi hồi nhớ lại câu chuyện đau lòng năm xưa. “Đó là một buổi tối cách đây khoảng 60 năm.
Trời chập choạng tối, một nhóm thanh niên trong làng sau khi đi chơi về ngang qua một khúc cua nhỏ gần bờ suối thì bỗng đâu một con cọp dữ từ trong bụi cây gần đó lừng lững xuất hiện, nhe nanh gầm thét. Rồi nhanh như chớp, con cọp nặng mấy trăm cân nhảy phốc lên, chân trước đầy nanh vuốt táp ông Đản (một người trong nhóm – PV) nằm gục ngay tại chỗ. Cả nhóm thanh niên khiếp đảm vừa chạy vừa kêu cứu. Nhưng lúc cả làng châm đèn đuốc, vác gậy gộc đến nơi, thì con hổ đã g.iết c.hết ông Đản mất rồi”. Đương thời trai tráng, ông Nãi là người tận mắt chứng kiến cái c.hết đau lòng ấy của người thanh niên trong làng. Nhưng lúc đó, dù rất căm hận, ông biết sức một mình thì khó làm gì nổi cả bầy cọp dữ, nghe đồn còn có hổ chúa to lớn hơn cả con g.iết c.hết ông Đản, sống lẩn khuất trong rừng sâu. Bởi thế, ông đành nhẫn nhịn, ngày ngày khổ luyện võ nghệ chờ cơ hội.
Giải thích về sự cát cứ của hổ tại vùng Tiên Cảnh thời kỳ ấy, ông Nãi trầm ngâm bảo: “Vùng này khi xưa nương rẫy trù phú, bao quanh bởi nhiều con suối nhỏ. Chính không gian ấy đã thu hút cọp tụ tập về, có những lúc hàng chục con đi lại phía bìa rừng uống nước, săn mồi. Những lúc màn đêm buông xuống, giữa những tàn cây rậm rạp, đôi mắt xanh c.hết chóc của chúng lại bất giác ẩn hiện bên dòng nước róc rách. Sau những lần “râu hùm chạm thủy”, vết tích để lại là những dấu chân, những vết nanh cào sâu vào nền đất đá bên bờ suối”.
Video đang HOT
Đối mặt cọp dữ trước hiên nhà
Gia đình ông Nãi trước kia vốn đã có 7 đời cắt thuốc cứu người. Bên cạnh đó cha ông cũng là một pháp sư nổi tiếng trong vùng. Ông bảo: “Xưa kia, bà con Tiên Cảnh có phong tục cúng thần rừng, vị thần họ tin rằng nắm giữ bổn mạng của cả vùng đất này. Đại diện cho thần rừng, không phải loài nào khác mà chính là hổ dữ – vị chúa sơn lâm đầy quyền uy. Mỗi lần cầu cúng như thế, dân làng đều mời những pháp sư như cha tôi đến lập đàn. Theo cha từ thuở nhỏ trong những dịp như vậy, tôi đã được tận mắt chứng kiến những điều quá đỗi lạ kỳ”.
Sự lạ ấy, như những gì ông Nãi tiết lộ chính là phép tịch cọp mà các thầy pháp như cha ông thường gọi nôm na là: Gọi hổ về giữa cánh đồng cho dân chiêm ngưỡng. Ông Nãi bảo chính cha mình từng tận mắt chứng kiến một lần dân làng mình xưa kia được thầy Pháp giỏi gọi “ông ba mươi” về rồi kể lại cho ông nghe. Sau nghi thức cúng bái của các thầy Pháp, cọp ở trên rừng về giữa cánh đồng nhưng tỏ ra rất hiền lành chứ không hề hung dữ như lần người dân gặp trước đó. “Lúc ông cọp về, nó như bị yểm bùa nên thân hình vằn đen to lớn không còn gầm rú và tinh nhanh như lúc săn mồi nữa. Người dân kéo đến xem ông cọp rất đông. Thời gian thầy Pháp tịch cọp thường chỉ trong vòng 1 tuần hương thôi”, ông Nãi cho biết.
Thực hư câu chuyện gọi hổ khỏi rừng này chưa biết thế nào, nhưng ký ức giáp mặt hổ dữ ngay tại nhà mình sau một lần cha cúng thần rừng thì ông Nãi khẳng định chính mình từng trải qua với bao nỗi khiếp sợ. Ông kể: “Tôi còn nhớ như in một lần làm lễ cúng thần rừng, cha tôi sơ xuất cúng không thiêng, khiến cọp tìm về tận nhà mình. Loài hổ rất có linh tính. Lúc trước, tôi có nghe cha nói nhưng không tin. Nhưng hôm đó, khoảng 5h tối, khi mọi người trong nhà vừa ăn cơm xong thì từ bên ngoài, chúng tôi nghe thấy tiếng chó sủa inh ỏi. Rồi liền đó, một trận gió thổi qua mang theo mùi hôi thối lợm giọng. Bỏ vội chén nước uống dở chạy ra ngoài, cha tôi vội hô hoán mọi người nấp vào phía trong nhà. Thì ra, một con hổ dữ đang lừ lừ tiến vào từ đầu ngõ”.
“Lúc ấy, ông ba mươi đứng lừng lững giữa sân. Đôi mắt xanh biếc long lên sòng sọc. Nhìn thấy đàn chó nhà đang khép nép vì sợ hãi trong góc sân, hổ khom người xuống lấy tấn định phi tới. Đúng lúc đó, tôi nhanh tay vào chụp lấy cây giáo để sẵn trong nhà đ.âm một nhát chí mạng trúng ức con ác thú. Vì b.ị đ.âm bất ngờ, con hổ gầm lên một tiếng rúng động núi rừng. Nhưng dù bị tấn công thì những mục tiêu hổ đã lựa chọn thì nó sẽ bắt cho kỳ được. Cú đ.âm của tôi làm hổ choáng váng nhưng nó vẫn lao tới chụp lấy con chó rồi lao đi khuất dạng vào rừng sâu. Một mảnh răng hổ do va phải hòn đá, nơi con chó đứng nấp bị gãy lìa còn nằm lại. Sau này, cha tôi vẫn giữ nó một thời gian dài làm kỷ niệm”, ông Nãi kể.
Không hiểu sao, kể từ lần đó, cọp dữ vùng Tiên Cảnh càng hoành hành táo tợn hơn. Nhiều lần, cứ khoảng chập tối là “ông ba mươi” đi thành nhóm, có khi vài ba con mò về làng bắt chó, bắt bò. Nhiều nhà dân làng liên tục bị cọp bắt mất chó nhưng đành bất lực không thể làm gì được. Sự lộng hành ấy khiến những bô lão trong làng Tiên Cảnh quyết định họp lại tìm kế sách đối phó. Từ đây, ý tưởng thành lập Phường săn cọp ra đời, thậm chí được tri huyện trấn Thăng Bình tấu xin chỉ dụ của vua Bảo Đại. Phường săn quy tụ các thanh niên trai tráng khỏe mạnh, tinh thông võ nghệ để sẵn sàng bảo vệ tính mạng dân làng. Phường săn ấy, với ông Nãi là dũng sĩ cuối cùng đến nay còn sống sót, đã trải qua bao trận đ.ánh sinh tử đã trở thành huyền thoại .
Bỏ xứ ra đi vì sợ vía “ông ba mươi” Thời đó, vùng núi Tiên Cảnh và các vùng xung quanh đó như Tiên Hiệp, Tiên Lộc, Tiên Châu thời xưa gọi chung là trấn Thăng Bình được cai quản bởi quan tri huyện của chế độ phong kiến nửa thực dân. Cách làng ông Nãi sinh sống chỉ mấy ngọn đồi, người dân cũng từng kinh hoàng chứng kiến một người phụ nữ đi làm nương rẫy trên đường về bị cọp g.iết h.ại. Sáng ra, có người đi lên nương mới phát hiện ra cả t.hi t.hể người chỉ còn lại duy nhất cái đầu be bét m.áu. Nỗi sợ ông cọp từ đó trong dân chúng khắp vùng ngày càng tăng lên. Thậm chí, vì ám ảnh bị hổ dữ g.iết h.ại, nhiều gia đình đã phải lũ lượt kéo nhau bỏ xứ ra đi.
Theo Duy Khánh – Văn Nhân (Gia đình & Xã hội)
Gặp cung nữ còn lại của triều Nguyễn
Góc nhìn thú vị về cuộc sống nơi cung cấm qua chuyện kể của bà Trần Thị Vui, một trong những cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn.
Tình cờ tôi gặp được bà Trần Thị Vui - một trong những cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, hiện sống ở đường Chi Lăng, thành phố Huế. Mặc dù chỉ vào cung hầu hạ Thái hậu Từ Cung dưới triều Bảo Đại trong vòng 3 năm, nhưng những dòng hồi ức "chấm phá" của bà đã giúp cho bạn đọc có thêm được những góc nhìn rất thú vị về cuộc sống một thời trong cung cấm...
Bà Trần Thị Vui - một trong những cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn hiện đang còn sống.
Chỉ được... bóp chân
Năm nay đã hơn 80 t.uổi, nhưng bà Vui vẫn còn lưu giữ được sự quý phái cũng như nét thanh sắc của một thời con gái. Đặc biệt, bà còn rất khỏe. Những ngày mùa nóng, trời Huế như cái chảo rang, nhưng bà Vui vẫn "đội nắng" đi bộ hơn... 5km, từ đường Chi Lăng lên nhà người quen ở mạn Nam Giao, hoặc về tận huyện Phú Vang. Chuyện với bà, quanh đi quẩn lại cũng là chuyện làm cung nữ.
Bà kể, chuyện bà được vào cung làm cung nữ, giờ nghĩ lại là một sự tình cờ, chứ không phải được "tuyển" như nhiều người khác. Theo một người cháu xa của bà - nhà nghiên cứu văn hóa Huế, ông Hồ Tấn Phan thì bà Vui là con gái của bà Tôn Nữ Thị Biên - cháu hệ 5, phòng Hoàng tử Diễn Quốc Công, chuyên phụng trực ở điện Phụng Tiên (lo việc hương khói, thờ cúng ông bà của dòng họ nhà Nguyễn) trong Đại Nội thời Khải Định.
Trong thời gian đó, bà Biên có đi lại với một người cháu trai của bà Quan phi (vợ Vua Đồng Khánh) họ Trần, người làng Liễu Cốc (nay thuộc xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế và mang thai, và sau đó sinh ra bà Vui. Tuy nhiên, gia đình người này đã không chịu cưới bà Biên với lý do: Gia đình họ ở nông thôn, bây giờ lại đi cưới một cô ưỡn ẹo ở "trong Nội" về thì biết làm cái chi mà ăn(?). Thế là bà Biên đành phải cắn răng một mình nuôi con và tiếp tục công việc nhang khói ở điện Phụng Tiên cho đến cuối đời.
Đến năm 15 t.uổi, vì muốn mẹ con được ở gần nhau, bà Biên đã xin được đưa bà Vui vào cung Diên Thọ để làm cung nữ hầu hạ bên cạnh bà Từ Cung Hoàng Thái Hậu. Tưởng làm cung nữ là hoành tráng như trong... phim Trung Quốc, suốt ngày đi lại, bóp vai, vui đùa, trò chuyện thân mật với "chủ nhân", tuy nhiên, bà Vui đã làm tôi bất ngờ khi nói: "Suốt 3 năm ở trong cung Diên Thọ, tui chỉ làm mỗi việc là... bóp chân cho bà Từ Cung và quạt hầu bà ngủ. Hằng tháng, tui được 3 đồng lương nhưng mạ tui nhận. Ăn uống thì đến bữa qua điện Phụng Tiện ăn với mạ tui, xong rồi về".
Hỏi sao lại chỉ bóp mỗi chân, còn các bộ phận khác trên cơ thể thì sao? Bà cười như nắc nẻ: "Chú đúng là không biết chi chuyện trong cung hết, phải là người thân tín với bà Từ Cung, bà mới cho hầu bóp vai, b.óp c.ổ, còn cỡ tui chỉ bóp chân thôi. Ngay cả những việc vặt như rót trà, têm trầu... cũng là việc của người khác, tui không được can dự".
"Đưa con vô Nội" là câu truyền tụng của dân gian Huế nhằm chỉ việc nhà nào có con gái được tuyển vào cung làm cung nữ thì được ăn sung mặc sướng, tuy nhiên đổi lại sẽ gần như suốt đời ở trong cung cấm, và sẽ không bao giờ gặp lại gia đình, người thân. Tuy nhiên, trường hợp bà Trần Thị Vui lại là một ngoại lệ, y như chuyện bà nhập cung vậy.
Bà kể: "Ở trong cung Diên Thọ được 3 năm, đến năm 18 t.uổi thì mạ tui xin cho tui được về nhà để... lấy chồng(!)". Về điều này, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan lý giải: Chuyện "đưa con vô Nội" chỉ đúng trong các triều đầu như Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức..., còn các triều sau, đặc biệt là các triều Khải Định, Bảo Đại do hoàn cảnh lịch sử rối ren, nên chuyện cung nữ vào hay ra cung không còn được thực hiện nghiêm ngặt như trước. Thậm chí, theo như lời bà Vui thì bà đã rất nhiều lần chứng kiến các quan lớn hằng ngày ra vào cung Diên Thọ (chuyện trước đây rất hiếm có) để hầu bài bà Từ Cung(!).
Vua Bảo Đại rất thích... ăn vặt
Vì chỉ ở trong cung một thời gian ngắn, và chuyện xảy ra cũng đã hơn 60 năm, nên bây giờ những chuyện cũ, bà Vui chỉ nhớ theo kiểu "chấm phá", điều được, điều mất. Tuy vậy qua hồi ức của bà, bạn đọc sẽ được biết thêm nhiều chi tiết thú vị mà sử sách không thể nào có được.
Một góc cung Diên Thọ ngày nay. Ảnh: Khánh Tường
Ví như chuyện vua Bảo Đại rất thích... ăn vặt. Thường khoảng 9 - 10 giờ sáng và 2 - 3 giờ chiều là vua kêu đói bụng. Bởi vậy trong bếp Thượng Thiện (ở phía trái Duyệt Thị Đường bây giờ) luôn có sẵn các loại bánh Huế, đặc biệt là bánh bèo để đáp ứng nhu cầu này của Bảo Đại.
"Vua Bảo Đại vui lắm" - bà nói - "Rất nhiều lần tui chứng kiến cảnh vua đi từ điện Kiến Trung (nơi ở) dọc theo các nhà cầu (hành lang, trường lang) qua cung Diên Thọ thăm mẹ. Vì vua thường đi nhanh nên mỗi lần tới cung Diên Thọ là phải đứng ngoài cửa để chờ bà Nam Phương hoàng hậu đi sau. Gặp nhau, hai người ôm nhau xoay một vòng như trong phim bây chừ, sau đó... hun nhau mấy cái đã rồi mới vào thăm bà Từ Cung".
Hay chuyện bà đã tận mắt nhìn thấy bà Thái Hoàng Thái Hậu (mẹ Vua Khải Định, mẹ chồng của bà Từ Cung) ở cung Trường Sanh nhờ có mối quan hệ, nên thường qua lại với một cung nữ bên đó. Và: "Trong những lúc bóp chân, tui thường nghe bà Từ Cung than vãn với người hầu cận chuyện bà Thái Hoàng Thái Hậu hay gây khó dễ với mình". Bà cười: "Chuyện mẹ chồng, nàng dâu trong cung cũng không khác chi ngoài dân gian mấy mô".
Chuyện mà bà Vui nhớ và thích kể nhất là chuyện ma. "Trong cung thời đó đã có điện thắp sáng trưng nhưng vẫn có nhiều ma lắm" - bà kể - "Một đêm, nhằm phiên trực hầu quạt cho bà Từ Cung ngủ, tới nửa đêm, tui đi kêu người thay ca. Đang đi trên nhà cầu thì thấy một người cầm đèn dầu đi ngược lại, nhìn dáng như chị Hiếu (một cung nữ khác). Nhưng đi một đoạn thì tui sợ toát mồ hôi vì không thấy chị Hiếu mô cả. Rồi có bữa tui không thấy người mô cả, mà chỉ nhìn thấy một cánh tay cầm điếu thuốc, đưa lên ở ngọn đèn điện để... thắp. Sợ quá tui nhắm mắt lại, mở ra lại không thấy chi nữa...".
Theo bà Vui thì bà và các cung nữ khác, cứ đêm đến khi đã rảnh việc là tụ tập với nhau và chỉ kể mỗi... chuyện ma rồi đi ngủ(!).
Với bà Vui, đời cung nữ ngắn ngủi nhưng sung sướng, vô lo, trong khi đời thường dân lại là những chuỗi ngày dài lê thê chuyện buồn. Sau khi rời cung năm 18 t.uổi, bà Vui lấy chồng nhưng lại không sinh được mụn con nào. Chồng bà lấy vợ hai, sinh được mấy người con rồi mất sớm. Hiện tại, bà Vui sống chung nhà với mấy người con chồng, và hàng tháng nhờ vào t.iền trợ cấp của một người cháu xa. May mà trời "bù" cho bà được sự mạnh khỏe nên chưa làm khổ người, khổ mình.
Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan thường đùa: "Dì Vui không có tài sản gì quý giá ngoài hồi ức của 3 năm làm cung nữ". Câu đùa trên có lẽ đúng phần nào khi nhìn bà kể chuyện trong cung với đôi mắt luôn ánh lên những niềm kiêu hãnh.
Theo vietbao
Dàn xe máy cổ từ thời vua Bảo Đại Lần đầu tiên, dàn xe máy cổ từ thời vua Bảo Đại được tập hợp và trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh làm nức lòng người dân Kinh Bắc. "Độc chưa từng có" là lời duy nhất dành cho những chiếc xe máy thuộc thế hệ đầu tiên có mặt ở Việt Nam. Chủ nhân của dàn xe máy cổ có...