Cuộc chuyển quân thần tốc tháng 2/1979 Kỳ 3: Hành quân bằng tàu thủy
Nhập ngũ năm 18 tuổi, cựu chiến binh Quân đoàn 2 Nguyễn Trung Liên (64 tuổi, hiện đang sống tại Nghệ An) là nhân chứng trong câu chuyện khá đặc biệt: tham gia cả hai chặng hành quân thần tốc bằng tàu.
Kỳ 1: Những chuyến không vận từ Nam ra Bắc
Kỳ 2: Tháo ghế Boeing 707 và đường băng thắp đèn dầu
Kỳ 3: Hành quân bằng tàu thủy
Kỳ 4: Những bước chân Quang Trung
Kỳ 5: Cầu hàng không Việt – Xô
Ông Nguyễn Trung Liên khoe tấm ảnh chụp cùng các cán bộ Trung đoàn 24 trong chuyến hành quân trên tàu Thống Nhất để ra Bắc năm 1979 – Ảnh: My Lăng
Ông là một trong những người lính của Quân đoàn 2 hành quân bằng đường thủy, từ cảng Kampong Som về nước và sau đó lại có mặt trong đội hình hành quân ra Bắc cũng bằng đường biển.
Từ cảng Kampong Som đến Tân Cảng
Nhớ lại câu chuyện 38 năm trước, cựu chiến binh Nguyễn Trung Liên cho biết: “Trung đoàn bộ binh 24 của tôi đi cùng Lữ đoàn xe tăng 203 bằng đường biển, xuất phát từ cảng Kampong Som về Tân Cảng (Sài Gòn).
Chúng tôi đi từ Campuchia về nước bằng hai tàu chở hàng: Vàm Cỏ 21 và Vàm Cỏ 22″. Ông Nguyễn Trung Liên đi trên tàu Vàm Cỏ 22 kể.
“Đây là tàu vận tải chứ không phải chở khách nên nhỏ, chật lắm. Nhìn xuống tàu chỉ thấy người và người, đông đen, kẹt cứng. Anh em phải mắc võng trên boong để tiết kiệm diện tích và có chỗ cho người nằm dưới. Bộ đội nằm la liệt.
Trong hầm, dưới boong, anh em bộ đội phải nằm nghiêng như xếp cá trong rổ. Chân ở trên đầu, đầu ở dưới chân. Thậm chí nhiều người phải nằm dưới hầm máy, vừa ngột ngạt, nóng nực và hôi mùi dầu lại rất ồn vì máy chạy suốt ngày suốt đêm” – ông Liên kể.
“Anh em chúng tôi lúc này không say sóng nữa do tàu Thống Nhất to hơn tàu Vàm Cỏ. Bộ đội mình vừa đánh Pol Pot về, biết lần này đi là sống chết với quân xâm lược để giữ gìn biên cương tổ quốc nên tinh thần chiến đấu lên rất cao nhưng không ai từ bỏ hàng ngũ
Ông Nguyễn Trung Liên
Đúng ra, tàu chỉ đi một ngày một đêm sẽ về đến Tân Cảng. Nhưng tàu Vàm Cỏ 22 bị hỏng một máy, bị dạt về hướng Malaysia. Loay hoay mãi thợ máy mới sửa được. Tàu về chậm so với tàu Vàm Cỏ 21 khoảng 4 tiếng.
“Chúng tôi là lính bộ binh, chưa bao giờ đi tàu nên tất cả say sóng. Không ai ăn được, chỉ uống nước mà vẫn nôn thốc nôn tháo. Chúng tôi nằm võng, nhìn thấy anh em thủy thủ tàu ăn mì ống, nghe mùi mì thơm, đói, muốn ăn lắm nhưng không ăn được.
Khi đánh Pol Pot, chúng tôi phải ăn cả cá thối vì chẳng có cái gì ăn nữa. Anh em ai cũng gầy rục, cứ nằm mà ói chứ không dậy được. Say là vậy, sức không gượng dậy được nhưng đi trên tàu Vàm Cỏ, súng AK vẫn ôm bên người. Chúng tôi không bao giờ rời cây súng” – đại úy Nguyễn Trung Liên nhớ lại.
Chở quân bằng tàu khách Thống Nhất
Về đến Tân Cảng, bộ đội vẫn còn say sóng. Tàu dừng ở cảng, có người không đi nổi phải dìu lên bờ. Bộ đội nghỉ ngay tại cảng khoảng 2-3 tiếng để chờ lệnh. Đón sẵn ở cảng là lãnh đạo TP Hồ Chí Minh.
Video đang HOT
“Việc đón tiếp bộ đội rất chu đáo, tiếp tế mì tôm, bánh mì, đường, sữa…” – ông Liên kể. Lúc này, tàu khách Thống Nhất đã chờ sẵn ở Tân Cảng để chuẩn bị chở bộ đội chủ lực ra miền Bắc.
“Bộ Quốc phòng tổ chức mọi thứ rất chặt chẽ, khoa học. Bộ đội cứ hành quân về đến nơi chỉ mấy tiếng sau là lại hành quân đi tiếp. Mọi thứ cứ như đã sắp xếp sẵn đâu vào đó. Đến giờ là đi” – ông Liên nói.
Khoảng hơn 14h, Trung đoàn 24 lên tàu khách Thống Nhất để hành quân. Đại úy Liên nhớ lại: “Tàu Thống Nhất to lắm. To bằng cái nhà ba tầng. Lần đầu tiên chúng tôi được đi tàu lớn như thế. Cả trung đoàn bộ binh chúng tôi quân số hơn 800 người lên được hết tàu”.
Cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần được sắp xếp ở trên boong. Bộ đội các tiểu đoàn ở dưới hầm.
“Ở dưới hầm còn có cả dân Hải Phòng vào Nam buôn xoài. Tôi xuống xem anh em ăn ngủ thế nào thì thấy xoài để đầy dưới hầm tàu. Các thùng đạn được đưa từ Campuchia về cũng để chung với xoài” – đại úy Liên kể.
“Anh em chúng tôi lúc này không say sóng nữa do tàu Thống Nhất to hơn tàu Vàm Cỏ. Bộ đội mình vừa đánh Pol Pot về, biết lần này đi là sống chết với quân xâm lược giữ gìn biên cương tổ quốc nên nên tinh thần chiến đấu lên rất cao” – ông Liên nói.
Sau ba ngày ba đêm hành quân trên biển, tàu về đến cảng Chùa Vẽ (Hải Phòng). Lãnh đạo TP Hải Phòng tổ chức tiếp đón quân chủ lực rất nhiệt tình. Thức ăn, nước uống được tiếp tế đầy đủ cho bộ đội ngay tại chỗ.
Chỉ 1-2 tiếng sau đó, khi màn đêm vừa buông xuống, trung đoàn đi bộ ra ga Hải Phòng để lên tàu lửa hành quân về ga Đồng Quang – ga cuối cùng của Thái Nguyên. Từ đây, Binh đoàn Trường Sơn chở Trung đoàn bộ binh 24 đi theo đường 1B lên Lạng Sơn.
“Lạng Sơn lúc đó rét lắm – đại úy Nguyễn Trung Liên nhớ lại – Ở Campuchia nhiệt độ 41-42 độ. Về Lạng Sơn chỉ 2 độ! Anh em ai cũng quần áo phong phanh. Rét thôi rồi. Ở Campuchia đã biết thế nào là đói vàng mắt, thế nào là khát cháy cổ. Về Lạng Sơn lại biết thế nào là lạnh thấu xương! Ở đó toàn đồng bào người Tày, người Nùng. Đồng bào rất thương bộ đội, lấy chăn, áo ấm đưa cho chúng tôi”.
Lần hành quân thần tốc này, Quân đoàn 2 phải cơ động trên một đoạn đường dài gần 2.000km với nhiều phương tiện khác nhau: máy bay, ôtô, tàu biển, tàu hỏa… Từ Campuchia về đến Việt Nam, gần trăm chiếc xe tăng, thiết giáp của Lữ đoàn xe tăng 203 (lữ đoàn từng đánh chiếm dinh Độc Lập) cũng xuống tàu thủy ra cảng Hải Phòng.
Tiếp đó là hơn trăm kilômet đường sắt, đường bộ nữa để đến ngày 21-3, toàn bộ lực lượng, phương tiện của Lữ đoàn 203 đã có mặt ở Trại Cau (Thái Nguyên) sẵn sàng đánh địch. Đây là lần thứ ba chỉ trong vòng bốn năm, những người lính của Lữ đoàn xe tăng 203 lại lập kỳ tích về tốc độ hành binh thần tốc dọc chiều dài đất nước.
Trích máu và mặc áo tử sĩ
Ông Nguyễn Vinh Quang – Ảnh: M.Lăng
Tháng 2-1979, thượng sĩ Nguyễn Vinh Quang, đại đội phó đại đội chỉ huy của Trung đoàn 68 (Sư đoàn 304, Quân đoàn 2), cho biết: “Đơn vị tôi lúc ở Campuchia đã viết quyết tâm thư xin được về nước đánh quân xâm lược.
Từng người lên ký tên rồi trích máu điểm chỉ ngay tên mình. Tất cả chỉ mong sớm được về đánh quân Trung Quốc để giữ nước… Tại ga Hố Nai, đơn vị mang sẵn quần áo tử sĩ phát cho bộ đội mặc ra Bắc. Số lượng áo tử sĩ này vốn được chuẩn bị khi đi đánh Pol Pot. Nhưng lúc này, đơn vị còn thừa khoảng 1.000 cái.
Do đất nước mình rất khó khăn, một năm hai bộ đồ không đủ với người lính nên chúng tôi từ chỉ huy đến lính đều mặc áo tử sĩ để hành quân ra Bắc. Cả trung đoàn cứ một người một bộ màu cỏ úa sợi to, thô ráp, xù xì”.
Theo Tuổi Trẻ
Cuộc chuyển quân thần tốc tháng 2/1979 Kỳ cuối: Cầu hàng không Xô Việt chưa từng có
"Ngay sau khi Trung Quốc tấn công biên giới Việt Nam, Liên Xô đã cử một đoàn cố vấn cấp cao bay ngay sang Việt Nam và đề nghị lập cầu hàng không để hỗ trợ chúng ta".
Kỳ 1: Những chuyến không vận từ Nam ra Bắc
Kỳ 2: Tháo ghế Boeing 707 và đường băng thắp đèn dầu
Kỳ 3: Hành quân bằng tàu thủy
Kỳ 4: Những bước chân Quang Trung
Kỳ 5: Cầu hàng không Việt - Xô
Trung tướng Trần Hanh - Ảnh: My Lăng
"Trong quá trình giúp đỡ Việt Nam, tháng 3-1979, đoàn cố vấn gồm sáu phi công, huấn luyện viên và thiếu tướng không quân Malykh hi sinh khi chiếc máy bay An-24 hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng đâm vào núi. Hôm đó, đường băng bị mây che phủ hoàn toàn. Mình nói với họ không hạ cánh ở Đà Nẵng được thì có thể vào sân bay Cam Ranh nhưng phi công bảo: Để tôi cố gắng hạ cánh lần nữa. Vậy là tai nạn xảy ra
Trung tướng TRẦN HANH.
Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Hanh, 85 tuổi, nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng, phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, cho biết.
Tháng 2-1979, ông là phó tư lệnh Quân chủng Không quân, một trong những người trực tiếp làm việc với đoàn cố vấn cấp cao của Liên Xô.
Bay khẩn đến Hà Nội
Sáng 19-2-1979, một nhóm cố vấn quân sự cấp cao Liên Xô đã có mặt ở Hà Nội. Đoàn có 20 người, gồm các vị tướng giỏi nhất của tất cả quân binh chủng Liên Xô do đại tướng Gennady Ivanovich Obaturov làm trưởng đoàn và cũng là cố vấn trưởng.
Đại tướng Obaturov được các tướng lĩnh Liên Xô gọi là "từ điển bách khoa sống". Vừa đến Hà Nội, đoàn đã lập tức làm việc với các chỉ huy tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trung tướng Trần Hanh cho biết sau khi gặp đại tướng Văn Tiến Dũng (bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và trung tướng Lê Trọng Tấn (tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) để nắm tình hình, đại tướng Obaturov đã đích thân ra chiến trường, lên Lạng Sơn thị sát tình hình chiến đấu của quân đội Việt Nam.
"Ông ấy muốn kiểm tra hỏa lực của không quân, cao xạ, tên lửa như thế nào. Có lần đoàn rơi vào trận pháo kích của quân Trung Quốc nhưng may mắn không ai bị thương" - trung tướng Hanh kể.
Nhận thấy tương quan về vũ khí của Việt Nam lúc đó quá chênh lệch so với Trung Quốc, đại tướng Obaturov khẳng định phải lập một cầu hàng không từ Liên Xô đến Việt Nam. Việt Nam cần phải có một số lượng lớn vũ khí.
Đại tướng Obaturov đã gửi một báo cáo về Liên Xô yêu cầu khẩn cấp viện trợ cho Việt Nam một số lượng lớn vũ khí và trang thiết bị bằng đường hàng không. Để thiết lập cầu hàng không, một phái đoàn của Liên Xô trực tiếp làm việc với Quân chủng Không quân.
"Khi đó tôi là phó tư lệnh Quân chủng Không quân, từng học ở Nga, giao tiếp tiếng Nga tốt nên được ủy nhiệm làm việc với phái đoàn" - trung tướng Hanh nói.
Cầu hàng không quy mô
Đại tướng Obaturov tại Việt Nam, tháng 2/1979.
Trong thời gian ngắn nhất, quân đội Việt Nam đã nhận được tất cả mọi thứ cần thiết. Ngày 23-2-1979, Cục Vật tư - Bộ Quốc phòng và Tổng cục Kỹ thuật đã tổ chức tiếp nhận viện trợ của Liên Xô theo hai tuyến: đường không (bắt đầu từ ngày 23-2) và đường biển.
Từ thời điểm này, cầu hàng không quy mô giữa Liên Xô - Việt Nam được thiết lập. Nhưng máy bay không bay thẳng từ Liên Xô sang Việt Nam mà phải hạ cánh tiếp dầu ở khu vực gần biên giới Trung Quốc rồi mới bay tiếp sang Việt Nam.
"Đó là cầu hàng không lớn nhất, ào ạt nhất, chở nhiều khí tài quan trọng nhất và hiện đại nhất mà Liên Xô thực hiện" - trung tướng Trần Hanh cho biết.
Trong ký ức của một vị tướng không quân, ông Hanh nhớ rất rõ những ngày sôi động và khẩn trương chưa từng có ấy: ở sân bay quân sự Nội Bài, cả ngày lẫn đêm máy bay vận tải quân sự cỡ lớn An-22 hết chuyến này đến chuyến khác hạ cánh cất cánh.
Liên Xô chi viện vũ khí, trang thiết bị quân sự bằng một biên đội các máy bay vận tải khổng lồ An-22. Trung tướng Trần Hanh cho biết An-22 là loại máy bay chuyên chở khổng lồ của Nga. An-22 có tới bốn động cơ kép.
"Nó to và nặng nề lắm - ông Hanh kể - Khi vũ khí khí tài được An-22 chở đến Nội Bài, các cán bộ kỹ thuật của Quân chủng Không quân tiếp nhận ngay tại sân bay. Liên Xô dốc sức viện trợ cho mình các khí tài quân sự rất quý hiếm và hiện đại thời bấy giờ như: tiêm kích Mig-21, các loại tên lửa đối không, tên lửa bờ biển, các loại rađa tối tân".
Ngay tại sân bay Nội Bài, những chiếc máy bay tiêm kích Mig-21 bị tháo rời khi vận chuyển được các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Liên Xô lắp ráp khẩn trương.
Ông Hanh nói: "Các phi công chuyên bay thử ưu tú nhất của họ sang Nội Bài bay thử máy bay sau khi lắp ráp.
Tôi nhớ nhất trung tướng Traban - phi công chuyên bay thử giỏi nhất, đẳng cấp nhất của Liên Xô. Tất cả các loại máy bay chiến đấu của Liên Xô sản xuất, tướng Traban đều bay thử. Ông ấy gật đầu thì máy bay mới được bàn giao cho phi công khác bay.
Ông ấy còn thực hiện cả các động tác kỹ thuật đặc biệt. Khi tướng Traban khẳng định máy bay tốt thì mới bàn giao cho ta. Lúc đó phi công mình mới bay".
Sân bay Nội Bài những ngày đó không bao giờ ngủ. Máy bay An-22 cất hạ cánh cả ngày lẫn đêm. Đại tướng Obaturov cũng làm việc bất kể ngày đêm.
Tướng Hanh cho biết: "Đại tướng Obaturov rất trách nhiệm, năng nổ. Ông thường xuyên có mặt ở sân bay, ở xưởng lắp ráp quan sát, kiểm tra mọi thứ".
Các chuyên gia và nhân viên kỹ thuật Liên Xô còn có mặt ở sân bay Đà Nẵng để hỗ trợ các cán bộ, kỹ sư Việt Nam lắp ráp 24 máy bay Mig-21 khi chúng được vận chuyển về đây. Cũng đợt này, không quân Việt Nam được Liên Xô viện trợ thêm máy bay trinh sát và trực thăng chỉ huy Mi-8KP.
Chỉ trong thời gian ngắn, cầu hàng không chưa từng có giữa Liên Xô và Việt Nam đã được vận hành thần tốc với những thành quả không thể tưởng tượng được. Một khối lượng khổng lồ các loại vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu được vận chuyển từ Liên Xô sang Việt Nam.
Hàng chục máy bay tiêm kích và trực thăng, 400 xe tăng và xe bọc thép, 3.000 tấn vũ khí, trang bị, đạn dược.
Ngoài vũ khí, Liên bang Xô viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng. Tất cả các phương tiện chiến tranh này cùng hệ thống sửa chữa, bảo hành đều được chuyển đến Việt Nam trong vòng một tháng.
Ngoài đường không, từ giữa tháng 2 đến cuối tháng 3-1979, bằng đường thủy, Liên Xô đã đưa sang Việt Nam hàng ngàn tên lửa, 20 máy bay tiêm kích, 800 súng chống tăng RPG-7 của bộ binh, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai...
Đại tướng Ghenady Ivanovich Obaturov - Ảnh tư liệu
Cũng theo lệnh của đại tướng Obaturov, một phi đội máy bay An-12 do các phi công Liên Xô lái đã chở quân chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về Hà Nội để gấp rút bổ sung cho mặt trận biên giới.
Các phi đội An-26, Mi-8... của lực lượng không quân vận tải Liên Xô cũng được huy động tham gia nhiệm vụ không vận chở 20.000 quân chủ lực Việt Nam từ Nam ra Bắc.
Ít người biết trong cuộc họp giữa hai bên kéo dài ba tiếng ngày 25-2-1979, chính đại tướng Obaturov là người đã thuyết phục Việt Nam đưa toàn bộ Quân đoàn 2 - lực lượng tinh nhuệ từ Campuchia - về mặt trận phía Bắc bằng máy bay.
Theo Tuổi Trẻ
Chiến tranh biên giới 1979 và những câu chuyện cảm động thời bình Phố tôi có bác bán bánh mỳ bị điên. Hay nói một mình. Thỉnh thoảng lấy tay đấm vào đầu liên tục. Chiến tranh biên giới 1979 và những câu chuyện cảm động thời bình Phố tôi có bác bán bánh mỳ bị điên. Hay nói một mình. Thỉnh thoảng lấy tay đấm vào đầu liên tục. Lúc khỏe, bác sẽ bán bánh...