“Cuộc chiến” trong nội bộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông
Với một quyết định chưa rõ ràng từ Tòa trọng tài quốc tế trước những tranh chấp trên Biển Đông thì căng thẳng trong khu vực vẫn chưa có dấu hiệu giảm nhiệt. Thậm chí cả Bắc Kinh cũng không chắc chắn điều mình muốn là gì.
Vấn đề Biển Đông vẫn là một chủ đề nóng trong khu vực Đông Á và quốc tế, song dường như một vấn đề cốt lõi ở đây là không có một quốc gia nào liên quan đến tranh chấp, kể cả Trung Quốc, có một nhận thức hoàn toàn rõ ràng và chính xác về những gì mà Bắc Kinh đang cố đoạt lấy ở vùng biển này. Điều này là do có ba trường quan điểm đang “đấu đá” lẫn nhau giữa các học giả và chính trị gia Trung Quốc.
Foreign Policy đã có bài tìm hiểu về những tranh luận trong nội bộ Trung Quốc để giải thích cho việc thiếu vắng các hình thức đàm phán hiệu quả cũng như sự bất tín ngày càng gia tăng giữa Bắc Kinh, các nước Đông Nam Á và Washington.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ Chủ tịch Tập Cận Bình cho tới Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vương Nghị và các lãnh đạo quân đội như Đô đốc Tôn Kiến Quốc, luôn lặp lại những câu nói quen thuộc rằng các hòn đảo ở Biển Đông thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, hành động của nước này là các phương thức hợp pháp để bảo vệ chủ quyền riêng, Bắc Kinh không theo đuổi chính sách bành trướng bên ngoài các khu vực lãnh thổ hợp pháp cũng như giới hạn việc lắp đặt các thiết bị quân sự trên các hòn đảo nhân tạo cho mục đích phòng vệ.
Tuy nhiên, một số quốc gia ASEAN lại thấy lời giải thích này không mấy thuyết phục. Họ cảm thấy bị đe dọa từ những hòn đảo mà Bắc Kinh đang xây dựng, vì thế muốn Hoa Kỳ vào cuộc. Một số quan chức Mỹ cho rằng Trung Quốc đang tìm cách quân sự hóa khu vực Biển Đông, hay thậm chí là tìm cách giành quyền bá chủ.
Trong nội bộ Trung Quốc cũng chia thành nhiều luồng ý kiến khác nhau về Biển Đông.
Song trên thực tế, vẫn không rõ bản thân Trung Quốc có thực sự biết rằng nước này muốn đạt được mục đích gì ở Biển Đông hay không. Nói rộng hơn, có tới ba trường suy nghĩ khác nhau giữa các nhà phân tích Trung Quốc về những chính sách tốt nhất đối với khu vực này: hãy tạm gọi 3 nhóm này là người theo thuyết duy thực, người theo chủ nghĩa không khoan nhượng và những người ôn hòa.
Do sự nghiêm trọng của các căng thẳng hiện tại, các nhà phân tích Trung Quốc chịu áp lực buộc phải ngả theo quan điểm của chính phủ và rất ít những chỉ trích mạnh mẽ được “lên sóng”. Điều này có thể giải thích tại sao thế giới bên ngoài thường không nắm được các cuộc tranh luận đó. Nhưng sự thật, các cuộc tranh luận trong nước về vấn đề Biển Đông lại rất quan trọng trong việc hiểu được định hướng chính sách của Trung Quốc trong tương lai.
Những người theo chủ nghĩa duy thực ở Trung Quốc tin rằng các cơ sở của chính sách Biển Đông của Bắc Kinh hiện nay là hợp lý, và không cần điều chỉnh. Họ nhận thức được những cái giá phải trả về mặt danh tiếng và ngoại giao nhưng có xu hướng “xem nhẹ” sự mất mát đó bởi họ coi trọng sức mạnh và năng lực vật chất của Trung Quốc hơn hình ảnh của nước này ở nước ngoài. Niềm tin của họ được định hình từ quan điểm thực tế về đấu trường chính trị quốc tế, đó là chính sức mạnh vật chất chứ không phải các yếu tố như danh tiếng, hình ảnh hay luật lệ quốc tế, mới là đặc điểm mang tính quyết định. Vì vậy, họ cho rằng thời gian đang đứng về phía Trung Quốc khi nước này duy trì càng lâu sự trỗi dậy của mình. Loại suy nghĩ chính trị thực tế này đang chiếm ưu thế trong việc đưa ra quyết định về Biển Đông.
Video đang HOT
Những người duy thực cho rằng họ đang bảo vệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc bằng cách tăng cường sự hiện diện vật chất của mình ở Biển Đông. Nhưng họ không chắc phải làm gì với những hòn đảo mới xây. Liệu Bắc Kinh có nên thúc đẩy một tiến trình lắp đặt trang thiết bị quân sự mới bao gồm đặt các hệ thống vũ khí phòng vệ hay thiết bị phòng vệ khác hay không? Những người duy thực muốn có sức mạnh ở Biển Đông nhưng lại không chắc chắn liệu mạnh bao nhiêu thì đủ.
Trường suy nghĩ thứ hai, những người không khoan nhượng, lại cung cấp câu trả lời cho những câu hỏi mà nhóm một không thể đưa ra. Họ không chỉ cho rằng Bắc Kinh nên hiện diện trên 7 hòn đảo mới xây, bao gồm cả Đá Chữ Thập, Đá Subi và Đá Vành Khăn, như một lời khẳng định với thế giới bên ngoài, mà còn muốn Trung Quốc mở rộng lãnh thổ và hoạt động quân sự ở khu vực Biển Đông. Sự “bành trướng” như vậy bao gồm: xây dựng các hòn đảo thành những “căn cứ mini”, có đầy đủ các đặc tính như các quốc gia khác đang kiểm soát; hoặc biến tấm bản đồ đường chín đoạn thành đường phân định ranh giới lãnh thổ, theo đó gần như toàn bộ Biển Đông đều là của Trung Quốc. Những người thuộc nhóm này không có bất kỳ một sự lo lắng nào cho thế giới, họ chỉ muốn tối đa hóa lợi ích của riêng Trung Quốc.
Một điều rõ ràng rằng các báo cáo truyền thông quốc tế về chính sách Biển Đông của Trung Quốc thực tế đều miêu tả quan điểm này. Tin tốt là, những suy nghĩ của nhóm hai không chiếm đa số trong việc đưa ra quyết định cuối cùng. Những người cứng rắn trong chính phủ thường là các quan chức bộ tư pháp hoặc quân sự và chính sách mở rộng Biển Đông chắc chắn là để phục vụ cho những lợi ích quan liêu trong nội bộ ban ngành đó.
Những người cực đoan như vậy cũng tồn tại trong tầng lớp dân thường Trung Quốc, với đa số có quan điểm khá hời hợt và không ấn tượng về tình hình Biển Đông. Nhóm người không khoan nhượng thường dân này kêu gọi các hành động quyết liệt hơn, gây gổ hơn nhân danh lòng yêu nước chứ không cân nhắc đến các lợi ích của nước này. Mặc dù các thành phần nhóm hai không chiếm đa số trong việc quyết định chính sách, song giới lãnh đạo Trung Quốc cũng không thể dễ dàng bỏ qua ý kiến của họ nếu không muốn khuấy động một phong trào yêu nước mất kiểm soát.
Nhóm thứ ba, những người ôn hòa, tin rằng đã đến lúc Trung Quốc phải điều chỉnh chính sách của mình để làm rõ hơn những mục đích của nước này ở Biển Đông. Nhóm này nhận thấy những tham vọng hiện thời của Bắc Kinh về chủ quyền khiến cả thế giới sợ hãi và không tin tưởng. Họ chê trách chính phủ vì không cung cấp một bản kế hoạch chiến lược thuyết phục hay thúc đẩy phương thức ngoại giao hiệu quả với thế giới. Việc không cân nhắc kỹ trước các quyết định chiến lược lớn như xây dựng đảo nhân tạo thực sự đã làm tổn hại cho chính lợi ích của Bắc Kinh. Bằng việc bỏ qua nỗ lực hợp pháp hóa các hòn đảo của chính phủ Trung Quốc, những người này đứng về phía ngờ vực của quốc tế hơn là thông cảm cho những hành động của Bắc Kinh.
Những người ôn hòa cho rằng Trung Quốc cần phải dần dần làm rõ tấm bản đồ đường chín đoạn. Duy trì trạng thái mập mờ chỉ càng làm cho tấm bản đồ này trở thành một gánh nặng lịch sử và một vật cản không cần thiết trên con đường đạt tới thỏa thuận ngoại giao. Theo quan điểm của họ, việc cố biến tấm bản đồ này thành bằng chứng chủ quyền chỉ càng làm cho Bắc Kinh trở thành kẻ thù của các quốc gia Đông Nam Á và cả Mỹ. Họ cho rằng nếu Bắc Kinh tiếp tục đi con đường này thì sẽ phải đối mặt với mối nguy hiểm tiềm tàng trong việc “mở rộng” chiến lược”. Vấn đề lớn nhất đối với Trung Quốc, đó là thiếu một chính sách rõ ràng và hiệu quả về vấn đề Biển Đông.
Những người ôn hòa khá khác biệt so với nhóm một và hai. Tuy nhiên, cả ba nhóm đều chia sẻ một quan điểm quan trọng, đó là sự cần thiết phải xây dựng đảo. Các học giả, quan chức chính phủ cho tới chuyên gia Trung Quốc đều chưa một ai thừa nhận việc xây dựng đảo là một sai lầm. Họ có thể đưa ra những lý do khác nhau và những đánh giá khác nhau về hậu quả của việc này, song tất cả đều cho rằng đó là việc mà Trung Quốc cần phải làm, dù sớm hay muộn.
Nhiều thành viên cộng đồng quốc tế đã không ít lần lên tiếng chỉ trích việc xây dựng đảo của Trung Quốc. Và nhiều nước đã yêu cầu Bắc Kinh phải làm rõ ý định chiến lược của mình. Cho đến nay, kể cả các lãnh đạo nước này cũng không có một câu trả lời chính xác cho câu hỏi trên. Trong số ba nhóm nói trên, chỉ có những người theo chủ nghĩa không khoan nhượng có một câu trả lời nhanh nhưng thiếu ổn định. Phần còn lại vẫn đang tranh cãi xem chiến lược của Bắc Kinh là gì. Điều này cho thấy, chính sách Biển Đông của Trung Quốc thực tế không phải là một quyết sách cứng rắn, mà nó rất dễ thay đổi.
Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ và ASEAN, cần phải tạo ra các điều kiện thích hợp để định hình chính sách của Trung Quốc theo hướng hợp tác và hòa giải hơn. Cụ thể, các nước này nên giúp tăng cường tầm quan trọng của giới ôn hòa Trung Quốc, biến nhóm này thành lực lượng chủ chốt trong các cuộc họp bàn chính sách. Trong ba nhóm, chỉ có những người không khoan nhượng ủng hộ sử dụng quân sự. Nếu các quan chức Hoa Kỳ coi đó là quan điểm chi phối chính sách quốc gia Trung Quốc thì họ sẽ có thể tạo ra một khoảng cách ngoại giao giữa hai bên.
Về phần mình, Bắc Kinh cần phải làm rõ các mục tiêu chính sách của mình và tái khẳng định với những người hàng xóm, cũng như với Mỹ. Một cựu chiến binh Trung Quốc từng nói rằng chính sách ngoại giao của nước này vẫn đang trong tuổi “dậy thì”. Tuy nhiên, một Trung Quốc muốn trở thành nước gánh trọng trách trong khu vực và toàn cầu thì cần phải học cách nhanh chóng trở thành người lớn.
Nội dung được thực hiện qua tham khảo nguồn tin từ Foreign Policy (Tạp chí Chính sách đối ngoại), tạp chí của Mỹ xuất bản 2 số/tháng. Tạp chí này được thành lập vào năm 1970, hiện nay do ông David Rothkopf làm chủ biên.
Tuệ Minh (lược dịch)
Theo NTD
Bà Victoria Kwakwa: Việt Nam đang đứng trước vận hội lớn
Tại Hội thảo "Việt Nam nắm bắt cơ hội do các Hiệp định thương mại thế hệ mới", bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch khu vực Đông Á - Thái Bình Dương cho biết, hội nhập khu vực toàn cầu đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế VN.
Bà Victoria Kwakwa
Theo bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch khu vực Đông Á Thái Bình Dương, Ngân hàng thế giới, nếu so với thời điểm bắt đầu quá trình đổi mới, khi Việt Nam còn bị cách li với dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế thì đến nay Việt Nam đã trở thành một địa chỉ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu và một nền kinh tế xuất khẩu không ngừng phát triển.
Xuất khẩu là động lực chính giúp Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng mạnh. Kể từ năm 2000 xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế tạo đã tăng trưởng trên 20% mỗi năm và đến nay đã đạt kim ngạch trên 100 tỉ USD. Tỷ trọng thương mại trên GDP của Việt Nam gần đạt mức 180%, thuộc hàng cao nhất thế giới.
Theo bà Kwakwa, trong thời gian tới Việt Nam sẽ tiếp tục hưởng lợi từ lợi thế tương đối, tiếp tục thu hút đầu tư và tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Việt Nam là 1 trong 12 nước vừa đạt được thỏa thuận về hiệp định thương mại toàn diện nhất từng có trong 2 thập kỷ qua- Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Chiếm tỷ trọng 40% GDP và 30% tổng kim ngạch buôn bán hàng hóa toàn cầu. TPP thực sự là hiệp định thương mại tham vọng nhất và toàn diện nhất từng hoàn tất từ trước đến nay. Gần đây VN đã đàm phán xong Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA). Việt Nam đang đứng trước vận hội lớn, đó là khai thác tối đa lợi ích do các hiệp định thương mại tự do này mang lại.
Hai hiệp định thương mại nêu trên không chỉ đề cập vấn đề thâm nhập thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư truyền thống mà còn đề cập cả những vấn đề mới chưa được giải quyết thấu đáo trong các hiệp định ký kết trong khuôn khổ WTO như: thương mại điện tử, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hơn nữa, các hiệp định thương mại mới sẽ thiết lập các luật chơi quốc tế và các luật chơi đó sẽ có tác động mạnh hơn lên các chính sách và thể chế trong nước so với bất kỳ hiệp định thương mại tự do nào đã ký trước đây.
PGS.TS Phạm Thị Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ KTTH, Ban Kinh tế Trung ương đánh giá, giai đoạn 2016- 2020 là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng và then chốt đối với tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế- xã hội nước ta do Việt Nam đã ký kết và sẽ sớm triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới nhất là Hiệp định TPP, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU, với các quy định điều chỉnh mang tính toàn diện, trực tiếp gắn với hoạt động kinh doanh đầu tư, điều chỉnh các quy định về lao động, môi trường, tài chính, khoa học công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ, quy định về nền kinh tế số, thương mại điện tử...
Hay việc Việt Nam tham gia xây dựng và phát triển Cộng đồng kinh tế ASEAN khi hình thành một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ đầu tư, vốn, và lao động có tay nghề.
Tuy nhiên, theo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu trong tương quan của 140 nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thay đổi và được cải thiện dần nhưng vẫn còn ở mức hạn chế.
Trong các nước TPP, Việt Nam cũng là nước xếp hạng thấp nhất ở năng lực cạnh tranh (12/12). Theo báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu CGI, năm 2015, Việt Nam có thứ hạng 56/140 nền kinh tế, đạt 4,3/7 điểm, tăng 12 bậc so với năm 2014 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam giai đoạn 2006- 2015.
Các lĩnh vực Việt Nam có thứ hạng thấp ở nửa cuối, trung bình và dưới trung bình gồm: thể chế; phát triển thị trường tài chính; đào tạo và giáo dục sau tiểu học; cơ sở hạ tầng; trình độ kinh doanh; sẵn sàng công nghệ; đổi mới sáng tạo.
Chính vì thế, bà cho rằng trước những yêu cầu của hội nhập quốc tế và bối cảnh trong nước, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn.
Đó là thách thức trong việc thực thi các chuẩn mực cao gắn với vai trò Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công như thực hiện quy định cam kết quốc tế về mua sắm công, về doanh nghiệp nhà nước, hay yêu cầu chuẩn mực đối với tính nhất quán, minh bạch và dễ dự báo của chính sách và các quy định pháp luật.
Ngoài ra, thách thức từ xu hướng tự do hóa, hội nhập và liên kết quốc tế: thị trường vốn, lao động, sở hữu trí tuệ; Thách thức về phát triển bền vững và từ cuộc cách mạng công nghệ trên thế giới.
Đứng trước những thách thức trên, theo bà cần phải cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là giải pháp then chốt để phát triển kinh tế và hiện thực hóa các cơ hội của hội nhập quốc tế. Tập trung cải thiện toàn diện các yếu tố căn bản tác động tới môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đồng thời tăng cường hiệu quả của các cơ quan nhà nước, bộ ngành và chính quyền địa phương.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Mỹ thêm cứng rắn với Trung Quốc ở Đông Á Theo hãng tin Reuters, hạm đội 3 của hải quân Mỹ sẽ gửi thêm tàu chiến tới Đông Á để hỗ trợ cho hạm đội 7 giữa lúc Washington có nhiều căng thẳng với Bắc Kinh ở khu vực này. Nhóm tàu tác chiến Thái Bình Dương của hạm đội 3, bao gồm tàu khu trục tên lửa USS Spruance và USS Momsen,...