Cuộc chiến bí mật khiến loạt tàu Mỹ bị đánh đắm
Để tránh gây hoang mang, Washington che giấu việc các tàu ngầm Đức Quốc xã đã tấn công nhiều tàu chở hàng gần bờ biển nước Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Tàu ngầm U-576 của Đức Quốc xã hoạt động ngoài khơi nước Mỹ. Ảnh: Bảo tàng lịch sử Bắc Carolina.
2h ngày 19/1/1942, một tiếng động lớn khiến cậu bé 15 tuổi Gibb Gray ở làng Avon bật dậy và ngã khỏi giường. Đồ đạc trong nhà rung lắc, cửa kính vỡ, sách rơi khỏi giá. Ngạc nhiên và lo lắng, cha của Gibb chạy tới cửa sổ và nhìn về hướng mặt biển. Ông la lên với cả nhà: “Có một đám cháy ngoài đó”.
Một cuộn lửa lớn màu cam bốc lên. Cột khói đen kịt che mờ các ngôi sao và làm bầu trời thêm u tối, theo We Are The Mighty.
Chỉ cách đó gần 12 km, một tàu ngầm của Đức Quốc xã (được gọi là U-boat) đã phóng ngư lôi làm chìm chiếc tàu chở hàng dài hơn 100 m của Mỹ mang tên Thành phố Atlanta, khiến 44 thủy thủ thiệt mạng. Chỉ 3 người may mắn sống sót. Vài giờ sau, tàu ngầm cũng tấn công 2 tàu chở hàng khác.
Sự hiện diện của U-boat trong vùng biển Mỹ không còn là biểu dương sức mạnh mà nó nhằm giành phần thắng trong cuộc chiến cho Đức.
U-boat là tàu chiến hoạt động chủ yếu trên mặt biển. Nó có thể lặn dưới nước trong một thời gian nhất định – chủ yếu khi tấn công hay tránh sự phát hiện của tàu đối phương cũng như để tránh thời tiết xấu.
U-boat chỉ có thể di chuyển gần 100 km dưới mặt biển sau đó phải nổi lên để tích trữ không khí. Nó thường tấn công các tàu đối phương bằng hệ thống súng gắn trên boong khi nổi. Tàu ngầm này được trang bị 15 ngư lôi có chiều dài 6,7 m và được phóng với vận tốc 48 km một giờ. Các chuyên gia quân sự đánh giá U-boat là một trong những tàu chiến hiệu quả và có khả năng hoạt động trên biển tốt nhất.
Vài giờ sau vụ tấn công gần Avon, các mảnh vỡ và dầu loang bắt đầu xuất hiện tại khu vực bãi biển. Cảnh tượng này lặp lại thường xuyên.
Trong 6 tháng tiếp đó, dọc khu vực bờ biển phía đông và Vịnh Mexico, ít nhất 65 chiếc U-boat khác nhau của Đức đã tấn công các tàu thương mại của Mỹ và Anh. Đến tháng 7/1942, 397 tàu hàng bị đánh đắm hay hư hại, hơn 5.000 người thiệt mạng.
Phần lớn vụ tấn công tập trung ở khu vực Outer Banks tại Bắc Carolina, nơi hàng chục tàu thuyền qua lại mỗi ngày. Quá nhiều tàu bị tấn công đến mức, tại thời điểm đó, khu vực biển gần Cape Hatteras được gọi là “Giao điểm ngư lôi”.
Chính quyền Mỹ không muốn người dân hoang mang, do đó thông tin về các vụ tấn công của tàu ngầm Đức không được tiết lộ vì lý do an ninh quốc gia. Trong nhiều năm, phần lớn người dân Mỹ không biết về tình hình nguy hiểm lúc đó.
Tuy vậy, các gia đình sống ở khu vực Outer Banks biết rõ sự thực này bởi họ đang tham gia cuộc chiến. Dù gần như mỗi ngày đều có tàu hàng bị tấn công, người dân ở gần bờ biển không có lựa chọn nào khác ngoài việc cố gắng sống bình thường.
Tàu chở dầu Dixie Arrow bị tàu ngầm U-71 bắn chìm ngoài khơi Bắc Carolina vào ngày 26/3/1942. Ảnh: Hải quân Mỹ.
Sau đó, hoạt động tuần tiễu của Hải quân và Lực lượng bảo vệ bờ biển cùng máy bay của Không quân Mỹ đã góp phần ngăn chặn các cuộc tấn công của tàu ngầm Đức.
Các khinh khí cầu đảm trách nhiệm vụ tìm kiếm U-boat từ trên không trong khi tàu thuyền dân sự có radio thu phát được cử đi tuần tra và quấy rối tàu chiến của Đức. Quân đội Mỹ xây dựng các trạm bí mật theo dõi và nghe tiếng động từ tàu ngầm ở nhiều địa điểm để phát hiện U-boat.
Nhiều người dân Mỹ sống gần bờ biển trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 nhớ lại họ từng phải dán băng dính đen vào đèn pha xe hơi nhằm ngăn các tàu ngầm của Đức lợi dụng ánh đèn để tìm đường đi trong đêm tối.
Ngày 14/4/1942, tàu ngầm đầu tiên của Đức Quốc xã chìm sau khi đụng độ với Hải quân Mỹ tại vùng biển nước này. Trong vài tháng sau đó, thêm 3 U-boat bị đánh chìm dọc bờ biển Bắc Carolina.
Đến tháng 7/1942, chỉ huy lực lượng tàu ngầm Đức bắt đầu cảm thấy bất an. Ông ra lệnh cho các tàu ngầm còn lại chuyển phạm vi hoạt động sang phía bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải.
Video đang HOT
Giáo sư sử học Gerhard Weinberg tại Đại học Bắc Carolina từng gọi cuộc chiến ngoài khơi nước Mỹ năm 1942 là “thất bại đơn lẻ lớn nhất của Hải quân Mỹ”.
Xác tàu ngầm U-701 dưới đáy Đại Tây Dương ngoài khơi Bắc Carolina. Ảnh: NOAA.
Nhiều năm trôi qua, hầu hết bằng chứng về các vụ đụng độ với tàu ngầm Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 đã biến mất. Dưới đáy biển ngoài khơi Bắc Carolina là những phần còn sót lại của ít nhất 60 tàu chiến cùng số lượng không xác định ngư lôi, thuốc nổ.
Dù vậy, hầu hết người dân Mỹ không biết về giai đoạn cuộc chiến tranh lại lan tới gần đất nước này tới vậy.
Theo Tri Thức
Trận hải chiến nhấn chìm thiết giáp hạm "khủng" nhất Nhật Bản
Trận chiến tại vịnh Leyte là trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong các cuộc chiến tranh và cũng đánh dấu sự kết thúc cho vai trò của thiết giáp hạm trong lịch sử.
Ảnh minh họa
Trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thiết giáp hạm là loại tàu chiến hùng mạnh nhất trên biển và là biểu tượng cho sức mạnh hải quân của các quốc gia cho đến trước khi tàu sân bay ra đời.
Sau đây là những trận chiến lớn với nhiều thiết giáp hạm tham gia nhất.
4. Trận chiến Lemnos
Đây là trận đụng độ lớn giữa hải quân Hy Lạp và hải quân đế quốc Ottoman, diễn ra vào ngày 18/01/1913, trong cuộc chiến Balkan lần thứ 1.
Mỗi bên có 3 thiết giáp hạm tham gia trận chiến này, cùng một số tàu chiến hỗ trợ khác.
Trước đó, hải quân 2 nước đã từng giao chiến một lần vào tháng 12/1912, với phần thắng thuộc về Hy Lạp.
Để trả đũa, hải quân Ottoman lên kế hoạch tiêu diệt hạm đội Hy Lạp đang neo đậu tại đảo Lemnos.
Kế hoạch của họ là dùng một tuần dương hạm bí mật xâm nhập và tấn công cảng, sau đó rút đi, hy vọng một phần hạm đội Hy Lạp sẽ truy đuổi. Khi đó, hạm đội Ottoman có thể tấn công phần còn lại của hạm đội Hy Lạp.
Tuy nhiên trên thực tế, tư lệnh hạm đội Hy Lạp đoán được ý đồ của quân hải quân Ottoman và giữ toàn bộ hạm đội của mình trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, chờ đợi sự xuất hiện của hạm đội Ottoman.
Trong trận chiến diễn ra sau đó, các tàu của Ottoman khai hỏa với nhịp bắn cao nhưng độ chính xác rất kém. Hỏa lực từ tàu Hy Lạp ngược lại khá chính xác.
Kết thúc cuộc chiến, hạm đội Ottoman phải rút đi, với 3 tàu bị hư hỏng nặng. Phía Hy Lạp chỉ có 1 thủy thủ bị thương.
Thiết giáp hạm Barbaroshayreddin của hải quân Ottoman
5. Trận chiến Jutland
Jutland, một trong những trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong lịch sử, diễn ra trong 2 ngày 31/5 và 1/6/1916 giữa 2 hạm đội chủ lực của hải quân Anh và Đức.
Phía Anh tung vào trận chiến 150 tàu chiến, trong đó gồm 28 thiết giáp hạm. Còn phía Đức có 100 tàu, với 16 thiết giáp hạm. Hơn 100.000 sĩ quan và thủy thủ của cả 2 bên tham gia trận chiến này.
Ưu thế trên biển khi đó vẫn nghiêng hẳn về phía người Anh. Mục tiêu của người Đức trong trận chiến này là tiêu diệt nhiều sinh lực của hải quân Anh nhất có thể.
Trong khi đó, hải quân Anh muốn đánh bại hoàn toàn hải quân Đức trong một trận quyết chiến.
Mặc cho số tàu chiến và quy mô hỏa lực khổng lồ của 2 hạm đội, trận chiến kết thúc mà không bên nào giành được thắng lợi rõ ràng. Không có thiết giáp hạm nào bị đánh chìm.
Tuy vậy, thiệt hại của cả 2 bên là khá nặng nề. Hơn 6.000 thủy thủ Anh và 2.500 thủy thủ Đức thiệt mạng. Tương quan lực lượng trên biển của Anh và Đức sau trận chiến này vẫn không thay đổi.
Hạm đội Anh chịu thiệt nặng hơn một phần do họ sử dụng loại thuốc phóng, dùng cho các đại pháo, dễ bắt lửa.
Các tàu chiến của họ cũng mang theo cơ số thuốc phóng rất lớn, một phần trong đó không được bảo vệ và che chắn kỹ lưỡng.
Vì vậy, nhiều tàu Anh sau khi trúng đạn của Đức và bị bốc cháy dữ dội. Ngọn lửa này lan đến khoang chứa đầu đạn và kích nổ số đạn này.
Tuần dương hạm hạng nặng Queen Mary là một trong những con tàu có kho đạn bị bắt lửa và nổ tung
6. Trận chiến tại vịnh Leyte
Tháng 10/1944, lực lượng Mỹ, dưới quyền tướng McArthur, đổ bộ lên đảo Leyte chuẩn bị cho chiến dịch tái chiếm Philippines khỏi tay phát xít Nhật.
Trực tiếp hỗ trợ chiến dịch đổ bộ là Hạm đội 7, nhưng gần đó còn có Hạm đội 3 trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng nếu hải quân Nhật tấn công lực lượng đổ bộ. Hạm đội 3 khi đó gồm 14 tàu sân bay và hơn 1.000 chiến đấu cơ.
Nửa đêm ngày 18/10/1944, hạm đội Nhật gồm 7 thiết giáp hạm, 15 tuần dương hạm và 20 khu trục hạm xuất phát đến biển Phillippines để chặn đà tấn công của người Mỹ.
Lúc này lực lượng máy bay của hải quân Nhật đã gần như bị tiêu diệt hết, vì vậy, Nhật chỉ có thể trông cậy vào các thiết giáp hạm.
Đáng chú ý nhất là 2 thiết giáp hạm khổng lồ Musashi và Yamato, mỗi chiếc có lượng choán nước hơn 70.000 tấn.
Kế hoạch tác chiến của hải quân Nhật là chia lực lượng thành 2 mũi và cùng lúc tấn công hạm đội 7 của Mỹ từ 2 phía.
Mũi tấn công chính, bao gồm Musashi và Yamato, do phó Đô đốc Kurita chỉ huy. Mũi tấn công phụ nằm dưới quyền phó Đô đốc Nishimura.
Kế hoạch này đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phối hợp chặt chẽ giữa 2 hải đội. Tuy vậy, hải quân Nhật cũng hiểu rõ tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía người Mỹ.
Do đó, họ sử dụng những tàu sân bay của mình cho vai trò nghi binh. Thiếu máy bay và phi công, những tàu sân bay này không còn có tác dụng trên thực tế nhưng phía Mỹ khi đó vẫn chưa biết được điều này.
Sáng ngày 24/10/1944, cả 2 mũi tấn công của hạm đội Nhật đều bị máy bay trinh sát của hạm đội 3 phát hiện.
Tư lệnh hạm đội, Đô đốc Hasley, phát lệnh xuất kích cho toàn bộ lực lượng máy bay khổng lồ của mình.
Không có máy bay hỗ trợ, các tàu chiến Nhật chiến đấu trong vô vọng trước những đợt tấn công liên tục của người Mỹ.
Cả Yamato và Musashi đều là những mục tiêu tấn công chính nhưng Musashi kém may mắn hơn khi liên tục bị đánh trúng.
Đến cuối ngày hôm đó, siêu thiết giáp hạm này chìm xuống đáy biển sau khi đã hứng chịu hơn 30 quả bom và ngư lôi, và cùng với con tàu là một nửa trong thủy thủ đoàn 2.200 người.
Thiết giáp hạm Yamato sau khi bị trúng một quả bom
Tuy vậy, hạm đội Nhật chưa bị chặn đứng và tiếp tục di chuyển như theo kế hoạch.
Trong khi đó, Đô đốc Hasley lại ra lệnh cho hạm đội 3 truy đuổi nhóm tàu sân bay của Nhật, theo đúng như dự tính của đối phương.
Đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25/10, hai mũi tấn công của Nhật tiến vào vùng biển Phillipines và giao chiến với hạm đội 7.
Đây là một trong số rất ít những trận giao chiến trên biển lớn trong thế chiến thứ 2 mà không có sự tham gia của máy bay, chỉ có hỏa lực từ các tàu chiến.
Đến hết ngày 25/10, Nhật mất thêm 2 thiết giáp hạm cùng với 3 tuần dương hạm và 4 khu trục hạm. Hạm đội 7 mất 3 khu trục hạm và 1 tàu sân bay hạng nhẹ.
Thiết giáp hạm của Mỹ gồm các tàu Mississippi, West Virginia, Maryland, Tennessee, California và Pennsylvania vẫn nguyên vẹn sau trận chiến.
Cùng lúc đó, hạm đội 3 đuổi kịp hải đội nghi binh và đánh chìm 4 tàu sân bay Nhật.
Trận chiến tại vịnh Leyte là trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong các cuộc chiến tranh và cũng đánh dấu sự kết thúc cho vai trò của thiết giáp hạm trong lịch sử.
Đó là lần cuối cùng những thiết giáp hạm có cơ hội trực tiếp giao chiến với nhau.
Sau khi kết thúc trận chiến, 3 thiết giáp hạm của Nhật, bao gồm các tàu Fuso, Yamashiro và siêu thiết giáp hạm Musashi, bị tiêu diệt.
Các thiết giáp hạm của Mỹ tuy không chịu thiệt hại nhưng cũng có thể xem là thiếu may mắn.
Khi hạm đội 3 bắt kịp các tàu sân bay Nhật, thì Đô đốc Hasley đã quyết định điều động các thiết giáp hạm của mình tăng viện cho hạm đội 7.
Song khi đến nơi thì trận chiến tại đây cũng vừa kết thúc. Như vậy, những thiết giáp hạm này đã mất cơ hội hiếm có để khai hỏa vào tàu sân bay.
Theo Trí Thức Trẻ
Trận chiến khiến Hạm đội Thái Bình Dương Nga gần như bị xóa sổ "Không thể đếm được số lần chúng tôi bị bắn trúng. Đạn dường như rót xuống chúng tôi không ngừng" - Một sĩ quan Nga nói về hỏa lực quân Nhật trong trận chiến tại eo biển Tsushima. Trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thiết giáp hạm là loại tàu chiến hùng mạnh nhất trên biển và...