Cú va chạm giữa tàu ngầm Nga – Mỹ suýt gây thảm họa đại dương
Tàu ngầm Nga quay lại đột ngột, khiến tàu ngầm Mỹ đang bám theo bị bất ngờ và có rất ít thời gian để tránh một thảm họa khủng khiếp dưới lòng biển
Ngày 20/3/1993, tàu ngầm USS Grayling của Mỹ suýt gây ra thảm họa dưới lòng biển với tàu ngầm K-407 Novomoskovsk của Nga ở ngoài khơi bán đảo Kola trong khi thực hiện nhiệm vụ bám theo để theo dõi đối phương, theo National Interest.
Được biên chế năm 1969, tàu ngầm tấn công lớp Sturgeon chạy bằng năng lượng hạt nhân USS Grayling được hải quân Mỹ giao nhiệm vụ ẩn nấp gần căn cứ hải quân Nga để bám đuôi khi đối phương vừa rời cảng.
USS Grayling nằm tại cảng sau một nhiệm vụ. Ảnh: Navsource.org.
Tàu ngầm K-407 Novomoskovsk của Nga được biên chế vào năm 1990, cũng là chiếc cuối cùng trong lớp tàu ngầm Đề án 667BDRM có độ ồn thấp. Tàu dài 166 m, có lượng giãn nước gấp 4 lần tàu USS Grayling.
K-407 Novomoskovsk chứa 16 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) RSM-54, mỗi quả mang 4 đầu đạn hạt nhân độc lập. Đây là tàu ngầm đầu tiên từng khai hỏa đồng loạt 16 tên lửa đạn đạo trong một lần thử nghiệm vào năm 1991.
Tàu ngầm K-407 hôm đó rời căn cứ ở Severomorsk để huấn luyện trên biển Barents, cách thành phố Murmansk 193 km về phía bắc. Thời điểm đó, khoảng 60% số tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo Nga đang đồn trú ở khu vực Bắc Cực, quanh bán đảo Kola nằm ở phía đông biên giới giữa Nga với Bắc Âu.
Kíp tàu ngầm K-407 không hề biết sự hiện diện của tàu ngầm Mỹ đang bám đuôi khoảng 11 km phía sau. Khoảng 0h15 phút, thuyền trưởng Andrei Bulgakov cho tàu quay đầu trở về cảng khi đang ở độ sâu 66 m.
Tàu USS Grayling đột ngột mất dấu vết tàu ngầm Nga, khiến thuyền trưởng Richard Self phải tăng tốc để thu hẹp khoảng cách và sử dụng hệ thống định vị thủy âm (sonar) để xác định vị trí đối phương. Họ chỉ phát hiện K-407 khi ở khoảng cách 965 m, trong lúc tàu ngầm Nga đang lao thẳng về phía USS Grayling.
Một cú đâm trực diện thảm họa giữa hai tàu ngầm có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong tình huống đầy gay cấn đó. USS Grayling khi đó đã tăng tốc lên khoảng 14-27 km/h, trong khi tàu K-407 đang hành trình với vận tốc khoảng 32 km/h. Tàu ngầm Mỹ chỉ có tối đa 75 giây để tránh xảy ra va chạm. Thuyền trưởng Self tìm mọi cách để quay đầu và nổi lên mặt nước, nhưng tàu ngầm Mỹ đang tăng tốc, quán tính quá lớn trong khi có quá ít thời gian để cơ động.
Video đang HOT
Tàu ngầm Nga cũng không hề nhận ra chiếc USS Grayling đang lao tới. Lúc 0h46, kíp tàu K-407 sững sờ khi nghe thấy âm thanh va chạm lớn kéo dài khi tàu ngầm Mỹ sượt qua phía trên mạn phải tàu. Hệ thống định vị thủy âm của tàu Nga lúc này mới phát hiện ra USS Grayling.
Sau cú va chạm, tàu ngầm Mỹ lượn vòng xung quanh để biết chắc rằng K-407 không bị hư hỏng nghiêm trọng, sau đó hai tàu cùng quay trở về cảng của mình.
Rất may không có ai bị thương hay thiệt mạng trong sự cố này. Lớp vỏ ngoài của K-407 bị một vết lõm nhỏ nhưng thân tàu không bị thủng, trong khi USS Grayling chỉ bị hư hỏng nhẹ.
Tàu ngầm K-407 bị lõm sau khi va chạm với USS Grayling. Ảnh: Alexey Tuzov.
Mọi thứ có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều. Nếu tàu Mỹ va chạm chậm hơn 5 giây, nó sẽ đâm trúng khoang chứa tên lửa của K-407, khiến thân tàu bị vỡ và làm các quả tên lửa chứa đầu đạn hạt nhân rơi xuống biển.
Sự cố này gây ra tình huống rất khó xử bởi nó diễn ra ngay trước thềm cuộc gặp thượng đỉnh giữa Tổng thống Nga Boris Yeltsin và Tổng thống Mỹ mới đắc cử Bill Clinton. Ông Yeltsin đã nhắc lại sự việc này, khiến Tổng thống Clinton phải xin lỗi và cam kết tiến hành điều tra.
Sau cuộc điều tra, hải quân Mỹ đã cải cách quy trình hoạt động, huấn luyện và cắt giảm quy mô hoạt động của tàu ngầm. Tuy nhiên, chính sách bám đuôi tàu ngầm đạn đạo của các đối thủ tiềm tàng vẫn được duy trì.
Về việc tàu USS Grayling mất dấu vết K-407 Novomoskovsk, chuyên gia quân sự Sébastien Roblin cho rằng tàu ngầm Mỹ đang cố ẩn mình khi theo dõi đối phương, nên nó chỉ có thể dùng sonar thụ động để nghe ngóng tiếng động xung quanh và phát hiện tàu ngầm Nga. Hệ thống sonar chủ động có thể dễ dàng định vị tàu Nga, nhưng đồng thời cũng đánh động cho đối phương về sự hiện diện của USS Grayling.
Tuy nhiên, nhiễu tạp âm ở vùng biển nông gần bán đảo Kola lại rất lớn, trong khi K-407 lại là một trong số các tàu ngầm chạy êm nhất của Nga. Ngoài ra, tín hiệu phản xạ thủy âm phía trước tàu ngầm thường yếu hơn ở bên sườn, khiến hai tàu đối đầu khó phát hiện nhau hơn.
Sự kết hợp của các yếu tố này khiến USS Grayling không thể phát hiện tàu K-407 cho đến khi quá muộn. May mắn là vẫn còn đủ thời gian để tàu Mỹ cơ động, tránh gây ra thảm họa nghiêm trọng hơn nhiều.
Sau sự cố này, K-407 tiếp tục phục vụ trong hải quân Nga, còn USS Grayling hoạt động thêm vài năm trước khi bị loại biên vào năm 1997.
Theo Duy Sơn (VnEpress)
Sự cố khiến tàu ngầm Nga xé rách bụng tàu ngầm hạt nhân Mỹ
Những hạn chế về công nghệ thủy âm khiến hai chiếc tàu ngầm hạt nhân Nga và Mỹ không thể phát hiện ra nhau ở vùng biển nông nên đâm vào nhau.
Tháp chỉ huy của Kostroma sau vụ va chạm. Ảnh: Reddit.
Ngày 11/1/1992, hai tháng sau khi Liên Xô tan rã, Hải quân Mỹ muốn giám sát chặt chẽ Hải quân Nga nên đã huy động tàu ngầm hạt nhân USS Baton Rouge thực hiện hoạt động gián điệp bí mật ở vùng biển nông ngoài khơi đảo Kildin, cách quân cảng Murmansk của Nga hơn 22 km, theo National Interest.
Lúc 8h16, tàu USS Baton Rouge bất ngờ bị va chạm mạnh từ phía dưới, khiến bụng tàu bị rách toạc một đường dài, bể nước dằn xuất hiện nhiều vết nứt. USS Beton Rouge không mang theo vũ khí hạt nhân, nhưng cú va chạm mạnh có nguy cơ làm thủng lò phản ứng hạt nhân trên tàu, gây nhiễm xạ nặng cho vùng biển xung quanh.
Các thủy thủ Mỹ trên tàu ngầm không thể ngờ được rằng vật thể va chạm với họ lại là B-276 Kostroma, một tàu ngầm tấn công hạt nhân Đề án 945 Barrakuda có kích thước khổng lồ của Nga.
Trước lúc va chạm, chiếc Kostroma đang trong quá trình nổi lên từ phía dưới tàu ngầm Mỹ với tốc độ hành trình gần 13 km/h. Tháp chỉ huy của tàu Nga đâm vào bụng tàu ngầm Mỹ, khiến khu vực này bị vỡ nát một phần. Nhiều mảnh vỏ cách âm của tàu ngầm Mỹ găm đầy trên vỏ tháp chỉ huy của Kostroma.
May mắn là một thảm họa hạt nhân đã không xảy ra, khi lò phản ứng trên cả hai tàu ngầm đều không bị hư hại sau va chạm. Tàu ngầm Mỹ lượn vòng quanh và phát tín hiệu liên lạc với tàu ngầm Nga để đảm bảo không có sự cố nghiêm trọng xảy ra, sau đó hai tàu quay về cảng để sửa chữa.
Dù USS Baton Rouge mới chỉ hoạt động 17 năm, chi phí sửa chữa dự tính sau tai nạn quá lớn buộc Mỹ đã loại biên tàu này vào tháng 1/1995. Về phần mình, tàu ngầm Kostroma được đại tu và ra khơi năm 1997, phục vụ trong biên chế Hải quân Nga cho đến ngày nay. Các thủy thủ Nga đã sơn dấu hiệu lên tháp chỉ huy tàu để đánh dấu việc "đánh bại" tàu USS Baton Rouge.
Vụ tai nạn này gây ra sự cố ngoại giao đầu tiên giữa Mỹ và Nga từ sau khi Liên Xô tan rã. Ngoại trưởng Mỹ James Baker phải gặp riêng Tổng thống Nga Boris Yeltsin để trấn an rằng Mỹ sẽ không tiến hành thêm các hoạt động do thám ở vùng biển gần Nga.
Nguyên nhân va chạm
Các chuyên gia quân sự cho rằng vụ va chạm giữa USS Baton Rouge và tàu Kostroma cho thấy những điểm hạn chế trong công nghệ thủy âm được các kíp tàu ngầm sử dụng để phát hiện mục tiêu và tránh các trường hợp đâm nhau.
Chuyên gia Sebastien Roblin cho rằng trong vùng biển nông, độ nhiễu nền đến từ các hoạt động trên mặt đất tăng gấp 10 lần, khiến việc phát hiện ra tín hiệu âm thanh của một tàu ngầm là điều rất khó. Ngay cả khi bắt được tín hiệu, các sóng âm này rất khó phân biệt trên nền nhiễu âm dày đặc.
Nhà phân tích Eugene Miasnikov ước tính tầm trinh sát của hệ thống định vị thủy âm (sonar) thụ động trên tàu ngầm Kostroma trong môi trường như vậy chỉ khoảng 100-200 m, thậm chí ngắn hơn nếu thời tiết xấu. Tàu ngầm Nga khó có thể phát hiện USS Baton Rouge nếu tiếp cận ở góc 60 độ từ bên dưới.
USS Baton Rouge trong một chuyến thử nghiệm. Ảnh: Hải quân Mỹ.
Tàu ngầm Nga ít có cơ hội phát hiện USS Baton Rouge có độ ồn thấp hơn. Các thiết bị cảm biến chống ngầm của Kostroma có tầm hoạt động chỉ 3-5 km trong điều kiện như vậy, chưa đủ để xác định vị trí đối phương. Việc triển khai sonar kéo sau để tăng tầm trinh sát là không khả thi tại vùng biển nông, nên nó không được sử dụng.
Hệ thống sonar chủ động có thể giúp kíp tàu ngầm phát hiện mục tiêu ở khoảng cách xa hơn, nhưng cũng dễ dàng bộc lộ vị trí của mình trước đối phương. USS Baton Rouge không sử dụng sonar chủ động trong quá trình do thám để đảm bảo bí mật, nên nó cũng không phát hiện được tàu Kostroma. Bản thân tàu ngầm Nga cũng không bật radar chủ động, khiến tàu Mỹ không có cách nào thu tín hiệu từ đối phương. Kết quả là hai tàu gần như không "nhìn" thấy nhau dù ở khoảng cách rất gần, khiến va chạm xảy ra.
Điều đó giải thích lý do các tàu ngầm kích cỡ lớn không thể phát hiện đối phương, ngay cả khi ở khoảng cách rất gần, cho tới khi đâm vào nhau. Vụ va chạm giữa tàu ngầm hạt nhân Triomphant của Pháp và Vanguard của Anh vào năm 2009 cho thấy nguy cơ này vẫn hiện hữu, ngay cả với các khí tại hiện đại ngày nay.
Duy Sơn
Theo VNE
NATO săn tìm 'sát thủ tàu sân bay' Nga ở Địa Trung Hải Máy bay chống ngầm NATO đang tìm kiếm dấu vết tàu ngầm lớp Oscar-II của Nga, được cho là đang hoạt động gần các nhóm tàu sân bay Pháp và Mỹ. Máy bay chống ngầm P-8A (trên) và P-3C của Hải quân Mỹ. Ảnh: Aces Flying High. Một cuộc săn tìm tàu ngầm quy mô lớn đang được NATO tiến hành tại Địa...