Covid-19 đã mang lại những thay đổi tích cực nào cho nền kinh tế thế giới?
Những tháng tiếp theo sẽ được coi là một thử nghiệm lớn trong việc liệu các công nghệ mới có thể cho phép nhân viên làm việc từ xa, thúc đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc văn phòng hiệu quả hay không. Và đối với các công ty đang lo lắng về chuỗi cung ứng eo hẹp trong cuộc chiến thương mại, đại dịch chính là một lý do nữa để tái cơ cấu.
Vào tháng 2 năm 2014, một cuộc đình công tại hệ thống tàu điện ngầm ở Luân Đôn đã mở ra cho các nhà lý thuyết quản trị một bài học về khả năng phục hồi và thích ứng. Bởi hệ thống chỉ bị đình công ở một số chuyến chứ không phải tất cả, người dân Luân Đôn buộc phải cân nhắc về cách đi lại của mình.
Nghiên cứu tại Đại học Oxford và Cambridge nhận thấy rằng khoảng 5% hành khách gặp rắc rối với lịch trình di chuyển mới của họ ngay cả sau khi dịch vụ bình thường được tiếp tục. Lợi ích kinh tế dài hạn đến từ một trong 20 hành khách đã áp dụng các biện pháp mới và cải tiến, hóa ra lớn hơn rất nhiều so với chi phí tổn thất trong thời gian gián đoạn.
Sự bùng phát Covid-19 trên toàn cầu đặt ra một thách thức lớn hơn rất nhiều so với sự việc trên. Các cảnh báo về lợi nhuận đang được phát đi nhanh chóng, hệt như tốc độ lây lan căn bệnh này. Các nhà phân tích tại Goldman Sachs ước tính rằng tăng trưởng doanh thu của các công ty trong nhóm S&P 500 sẽ chững lại.
Xét đến hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như chỉ số quản lý thu mua, đã sụt giảm ở châu Á và dự kiến sẽ suy giảm ở ở những nơi khác nữa khi dịch bệnh tràn tới. Người tiêu dùng không mua sắm gì ngoại trừ giấy ướt, khẩu trang và đồ ăn sẵn. Những lo ngại về đại dịch đã xóa sổ 7 nghìn tỷ USD giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên toàn thế giới trong 2 tuần qua.
Giống như hầu hết những người đi tàu điện ngầm ở Luân Đôn, một số công ty sẽ hoạt động trở lại khi mối đe dọa giảm bớt. Nhưng đối với những người khác, sự gián đoạn sẽ có tác động lâu dài, thúc đẩy các xu hướng tiềm ẩn trong tổ chức kinh doanh.
Những tháng tiếp theo sẽ được coi là một thử nghiệm lớn trong việc liệu các công nghệ mới có thể cho phép nhân viên làm việc từ xa, thúc đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc văn phòng hiệu quả hay không. Và đối với các công ty đang lo lắng về chuỗi cung ứng eo hẹp trong cuộc chiến thương mại, đại dịch chính là một lý do nữa để cơ cấu lại chúng.
Video đang HOT
Xét đến yếu tố nhân sự. Trước tiên, các công ty phải tự hỏi rằng có nên cho nhân viên đi công tác, tham dự hội nghị hay thậm chí đến văn phòng hay không. Trong cả ba trường hợp, câu trả lời ngày càng sẽ là “không”. Nhiều công ty lớn, bao gồm Amazon và JPMorgan Chase, đã cấm tất cả các chuyến bay không cần thiết. Các hãng hàng không và khách sạn đang báo cáo sự sụt giảm trong đặt phòng.
Corporate Travel Management, một công ty niêm yết của Úc chuyên tổ chức các chuyến đi cho doanh nghiệp, đã cảnh báo rằng tác động có thể kéo dài đến sáu tháng. Một cuộc khảo sát của Hiệp hội Du lịch Kinh doanh toàn cầu cho thấy rằng việc đi công tác – mà tiêu tốn các công ty hơn 1 nghìn tỷ USD một năm (và thải ra lượng lớn carbon), có thể giảm hơn một phần ba trong khi dịch bệnh hoành hành.
Các sự kiện lớn của các công ty đang bị hủy bỏ. Cuộc họp mặt lớn nhất hàng năm của ngành công nghiệp dầu mỏ ở Houston và triển lãm ô tô Geneva sẽ không diễn ra trong tháng này. Google và Facebook đẩy mạnh những “hội thảo trực tuyến”. Tuần lễ thời trang tại Milan và Paris bị hủy bỏ, Armani đã phát trực tiếp buổi trình diễn mùa thu – đông. Đây là tin xấu đối với các công ty sự kiện như Informa – chứng kiến giá cổ phiếu giảm 1/5 kể từ đầu tháng Hai, đặc biệt là vào thời điểm mà nhiều buổi trình diễn của các nhãn hiệu cao cấp đang mất đi sức hấp dẫn.
Đồng thời, ngày càng nhiều công ty đang học cách tương tác từ xa. Vào ngày 3/3, JPMorgan Chase yêu cầu hàng ngàn nhân viên ngân hàng ở Mỹ làm việc tại nhà. Twitter đã yêu cầu 5.000 nhân viên của mình làm điều tương tự. Sony đã đóng cửa hoàn toàn một số văn phòng ở châu Âu, các công nhân dự kiến cũng sẽ làm việc từ xa.
Cùng với mức độ phung phí trong ngân sách dành cho các chuyến du lịch, các kế hoạch dự phòng cũng có thể tiết lộ tình trạng kém hiệu quả từ việc sử dụng không gian văn phòng. Các công ty lớn của Anh và Mỹ trả trung bình 5.000 USD cho mỗi nhân viên trong chi phí thuê hàng năm. Chỉ khoảng 40-50% số ghế ngồi được sử dụng trong thời gian làm việc.
Năm ngoái, 2/5 trong số 600.000 nhân viên văn phòng trả lời khảo sát của Leesman, một nhà cung cấp dữ liệu, rằng môi trường văn phòng đã ngăn cản họ làm việc hiệu quả. Nếu bây giờ các nhà quản lý thấy rằng năng suất thực sự tăng hoặc ít nhất là không bị ảnh hưởng khi nhân viên làm việc tại nhà, đây sẽ là một giải pháp hữu ích. Các nhà đầu tư đang đặt cược vào nó. Trong tháng vừa qua, giá cổ phiếu của Slack, một nền tảng trao đổi thông tin cho các tổ chức và Zoom, phần mềm họp mặt trực tuyến, đã tăng lần lượt 18% và 35%.
Hướng thứ hai mà các công ty có thể cân nhắc nhằm cải tiến doanh nghiệp là chuỗi cung ứng. Từ những năm 1980, những điều này đã trở nên phức tạp và toàn cầu hơn khi các công ty lớn hiện phụ thuộc vào hàng ngàn nhà cung cấp. Mô hình sản xuất tinh gọn và cung cấp kịp thời các thành phần, được tiên phong bởi Toyota vào những năm 1970, đã giúp sản xuất hiệu quả hơn nhưng nhạy cảm hơn trước những gián đoạn, vì các công ty dự trữ ngày càng ít vật liệu cần thiết. Trung bình các công ty thuộc S&P 500 chỉ có 66 ngày tồn kho, và con số này ở một vài công ty thậm chí còn nhỏ hơn – chỉ chín ngày đối với Apple, theo dữ liệu từ Bloomberg.
Khi thiên tai ập đến, các công ty lớn thường vượt qua bằng cách tạm thời chuyển sản xuất từ các khu vực bị ảnh hưởng sang các khu vực không bị ảnh hưởng. Nhưng không giống như lũ lụt, trận động đất hay thậm chí là cuộc chiến thương mại – những tình huống mà tất cả các công ty đều có kinh nghiệm từ trước, Covid-19 có thể ảnh hưởng đến tất cả các nhà thầu phụ hiện tại và tiềm năng của công ty. Trong một kịch bản như vậy, dự trữ nhiều hàng tồn kho hơn và tự chuẩn bị nguyên vật liệu có thể không còn lãng phí nữa. Điều này có thể được xem là cần thiết.
Virus corona sẽ không làm cho việc kinh doanh du lịch hoặc chuỗi cung ứng toàn cầu biến mất. Các nhà máy Trung Quốc đang hoạt động trở lại và rất có thể, những công ty giàu tiềm lực sẽ sớm quay lại cuộc chơi. Nhưng cuộc khủng hoảng mang đến cơ hội thử nghiệm những phương pháp hoạt động mới và đặt câu hỏi về tính hiệu quả của những thói quen cũ. Các giám đốc điều hành không nên bỏ lỡ cơ hội này.
Tham khảo Economist
Theo Báo dân sinh
Lan tỏa giá trị "ngầm" giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm
Nhờ sự vào cuộc quyết tâm của Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các bộ, ngành, những giá trị "ngầm" từ Chương trình quốc gia "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" đã lan tỏa rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp.
Việc thực hiện các dự án của Chương trình "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" đã lan tỏa ở khắp các lĩnh vực quan trọng
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 712/QĐ-TTg phê duyệt chương trình quốc gia "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020". Trải qua gần 10 năm thực hiện Quyết định nêu trên, với sự quyết tâm, sâu sát của Bộ Khoa học và Công nghệ mà trực tiếp là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Chương trình đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Việc thực hiện các dự án của Chương trình "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" đã lan tỏa ở khắp các lĩnh vực quan trọng của đời sống kinh tế - xã hội đất nước như: các ngành công nghiệp, chế biến (Bộ Công thương chủ trì); các ngành nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, thủy lợi, phòng chống thiên tai... (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì), các ngành dược phẩm, thiết bị y tế, khám chữa bệnh (Bộ Y tế chủ trì); các sản phẩm vật liệu xây dựng, xi măng, gạch ốp lát... (Bộ Xây dựng chủ trì); các lĩnh vực sản xuất thiết bị thông tin và truyền thông, sản phẩm tổng đài, thiết bị đầu cuối... (Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì).
Lấy ví dụ từ một trong những dự án quan trọng của Chương trình là "Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật" do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, có thể thấy, Dự án đã được triển khai từ năm 2011 đã mang lại với những tác động rõ nét. Nếu trước đây, việc xây dựng các tiêu chuẩn Việt Nam (quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả...), quy chuẩn Việt Nam (quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ...) là điểm yếu thì nay một bức tranh hoàn toàn mới xuất hiện.
Các số liệu thống kê cho thấy, chỉ tính riêng trong năm 2019, dự án đã đem lại gần 900 tiêu chuẩn Việt Nam, trong đó Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng hơn 500 tiêu chuẩn, xã hội hóa được 12 tiêu chuẩn, 1 quy chuẩn làm theo đặt hàng của các hiệp hội và doanh nghiệp (sử dụng kinh phí của doanh nghiệp). Đây là tín hiệu tốt, cho thấy xã hội quan tâm đến lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, hơn 250 tiêu chuẩn do các bộ, ngành xây dựng đã được chuyển tới Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định, trong đó nhiều nhất là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Nhằm phổ biến sâu rộng các tiêu chuẩn, các quy định mới này, các thành viên thực hiện dự án đã chú trọng đến việc phổ biến thông qua các chương trình hướng dẫn trên quy mô toàn quốc. Nhờ vậy, hơn 350 tiêu chuẩn đã được giới thiệu cho hơn 2.000 tổ chức, doanh nghiệp, những đơn vị sẽ buộc phải áp dụng và tuân thủ các quy định đó trong quá trình quản lý, điều hành doanh nghiệp và sản xuất hàng hóa.
Các kết quả trên phần nào đã cho thấy, Chương trình "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" có một vị trí đặc biệt. Không tác động thẳng đến việc ra đời các sản phẩm mới, các hàng hóa mới của doanh nghiệp như các Chương trình khác nhưng chương trình "Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" lại tạo dựng một khuôn khổ vững chắc cho các hàng hóa thông qua việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng như và áp dụng các hệ thống quản lý, mô hình công cụ cải tiến năng suất và chất lượng ở doanh nghiệp.
Với những ý nghĩa đó, tại Hội nghị ban điều hành Chương trình quốc gia "Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020" diễn ra vào ngày 19/12/2019, nhìn lại những tác động "ngầm" của chương trình sau gần 10 năm triển khai, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng cho rằng: "Khi chúng ta tập trung coi doanh nghiệp là trung tâm và lấy việc hỗ trợ đổi mới của doanh nghiệp bằng cơ chế chính sách, bằng thúc đẩy áp dụng khoa học và công nghệ, những hoạt động của chương trình đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng của sản phẩm hàng hóa một cách thiết thực. Sự lan tỏa của những chương trình như vậy đã cho thấy có sự thay đổi và chuyển biến trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam".
Theo Tapchitaichinh.vn
Nâng cao năng suất chất lượng nhờ cải tiến máy móc hiện đại Việc nghiên cứu, cải tiến và đầu tư máy móc tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép Công ty Cổ phần Tổng công ty may ồng Nai nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Khi tầm ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ngày càng lớn thì yêu cầu về sức cạnh tranh của các...