Cột cờ Nam Định một trong bốn Kỳ đài cổ xưa nhất Việt Nam
Cột cờ Nam Định (tỉnh Nam Định) được xây dựng đầu thế kỷ 19, cùng thời với Cột cờ Hà Nội và có kiến trúc khá tương đồng.
Công trình kiến trúc cổ này được xếp hạng là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1962.
Cột cờ Nam Định là công trình quan trọng của Thành cổ Nam Định xưa.
Cột cờ Nam Định, thời xưa gọi là Kỳ đài Thành Nam, là một trong bốn cột cờ cổ xưa nhất cả nước, được xây dựng vào đầu thời Nguyễn cùng với Kỳ đài Kinh thành Huế (1807); Kỳ đài Hà Nội (1812); Kỳ đài Thành Bắc Ninh (1838).
Theo tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Nam Định, Cột cờ Nam Định được khởi dựng từ năm Gia Long 11 (1812) đến năm Quý Mão (1843) hoàn thành. Đây là công trình quan trọng của Thành cổ Nam Định, nằm ở phía Nam nội thành, trước Điện Kính Thiên (nay là Chùa Vọng Cung).
Với chiều cao 23,84m, Cột cờ Nam Định là kiến trúc cao nhất của Thành Nam thời kỳ đó. Đứng lầu vọng canh của Cột cờ có thể nhìn sang được vùng đất Thái Bình, bên kia sông Hồng, thậm chí nhìn sang tới tận Ninh Bình, bên kia sông Đáy.
Cột cờ Nam Định là một công trình kiến trúc độc đáo, phần bệ được xây bằng gạch nung già màu đỏ sẫm, khá tương đồng với Cột cờ Hà Nội. Cả hai cột cờ đều có mô hình một ngọn tháp hình lục lăng, bên trong rỗng và có cầu thang xoắn ốc đưa l.ên đ.ỉnh.
Kiến trúc Cột cờ Nam Định khá tương đồng với kiến trúc Cột cờ Hà Nội.
Sân Cột cờ Nam Định xưa được xây thành sân hành lễ, hình vuông, có hàng lan can ở bốn cạnh. Phía Nam đặt hai khẩu s.úng thần công. Phía Đông đặt lư hương tưởng nhớ các liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ Cột cờ – Thành cổ vào các năm 1873 và 1883.
Cột cờ Nam Định bao gồm 3 phần chính: Chân đế, thân cột và vọng canh.
Chân đế Cột cờ gồm hai bệ hình vuông. Bệ trên thu nhỏ lại so với bệ dưới. Xung quanh phía ngoài của hai mặt bệ đều xây lan can.
Bệ dưới mỗi cạnh dài 16,33m; cao 2,40m. Từ bệ dưới lên bệ trên đều có bậc lên xuống.
Video đang HOT
Bệ trên mỗi cạnh dài 11,42m; cao 3,10m. Bốn mặt bệ đều xây lan can và trổ bốn cửa. Trên mặt bệ thứ hai, có cửa đi vào bên trong Cột cờ.
Trên cửa phía Đông có hai chữ “Nghênh húc” (đón ánh ban mai); cửa phía Nam có hai chữ “Hướng quang” (hướng theo đức sáng). Phía Nam có cửa đi vào trong thân cột cờ; trên cửa gắn bia đá khắc chữ Hán “Kỳ đài” và “Thiệu Trị tam niên phụng tạo”.
Dưới bệ có Đền thờ Bà chúa Cột cờ – Giám thương Công chúa Nguyễn Thị Trinh – liệt nữ đầu tiên, hy sinh trong trận quân xâm lược Pháp đ.ánh chiếm thành Nam Định ngày 11/12/1873.
Thân Cột cờ cao 12,65m, phần dưới xây hình trụ bát giác, phần trên xây hình tròn, thu nhỏ dần từ trên xuống dưới.
Trong thân cột cờ có cầu thang xoáy trôn ốc gồm 54 bậc đi lên vọng canh, được chiếu sáng bằng 32 ô cửa sổ hình hoa thị của 8 mặt thân cột cờ.
Phần vọng canh xây hình trụ tròn có hàng lan can, 4 cửa vòm và 8 ô cửa sổ nhỏ. Từ mặt vọng canh có thang sắt nhỏ l.ên đ.ỉnh Cột cờ. Đứng trên lầu vọng canh có thể quan sát thoải mái về các phương hướng nội, ngoại thành.
Người dân Nam Định luôn tự hào với Cột cờ Thành Nam bởi nó gắn liền với nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng.
Trong 2 lần thực dân Pháp đ.ánh chiếm Thành Nam vào các năm 1873, 1883, Cột cờ là nơi diễn ra những trận chiến đấu kiên cường của các tướng sỹ và nhân dân Thành Nam.
Nhiều người đã anh dũng hy sinh, trong đó có anh hùng liệt nữ Nguyễn Thị Trinh. Bà là con gái của cụ Nguyễn Kế Hưng – quan Vệ úy coi kho lương ở Thành Nam triều Nguyễn.
Sau khi mất, bà được Vua Tự Đức và Vua Thành Thái truy phong là “Giám thương Công chúa” (Bà Chúa coi kho) và phong tặng mỹ hiệu “Tiết liệt anh phong”. Nhân dân Thành Nam suy tôn bà là Bản Cảnh Thành hoàng và lập miếu thờ tại Kỳ đài.
Tại Cột cờ hiện nay ở độ cao 11m về phía Nam vẫn còn một vết đạn sâu 4cm, đường kính 6cm – vết tích của tàu chiến Pháp từ sông Đào b.ắn phá vào trong thành ngày 27/3/1883.
Năm 1945, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên đỉnh Kỳ đài, khẳng định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám trên quê hương Nam Định.
Trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nhiều cán bộ, Đảng viên chọn Cột cờ làm nơi liên lạc và sinh hoạt bí mật để bàn kế chỉ đạo phong trào.
Cột cờ Nam Định cũng là trạm quan sát và trực chiến của dân quân tự vệ Nhà máy Liên hợp Dệt Nam Định.
Trải qua hai trận bị máy bay Mỹ oanh kích vào năm 1965 và năm 1972, Cột cờ bị phá hủy. Đến năm 1997, kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng thành phố Nam Định (1954-1997), Cột cờ được phục dựng lại theo đúng nguyên trạng.
Cột cờ Nam Định được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia từ rất sớm, vào ngày 28/4/1962. Năm 1997, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã cấp Bằng Di tích Lịch sử-Văn hóa cho công trình này.
Từ năm 2011, Bảo tàng tỉnh Nam Định tiếp nhận quản lý Di tích Cột cờ Nam Định. Hàng năm, nơi đây đón hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế đến tham quan và thắp hương tưởng nhớ các anh hùng hy sinh vì đất nước.
Với giá trị lịch sử và văn hóa, công trình kiến trúc cổ gần 2 thế kỷ Cột cờ Nam Định chính là biểu tượng khơi dậy lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào, quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
Tháp Tường Long - nơi 'rồng vàng hạ thế'
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tháp Tường Long ngày nay được xem như 'kỳ quan mới' của quận Đồ Sơn và trở thành địa chỉ tiêu biểu của văn hóa Việt Nam thời Lý - Trần trên vùng đất Hải Phòng với các giá trị quý giá về kiến trúc, hội họa, lịch sử.
Tháp Tường Long, ngọn tháp "rồng vàng hạ thế". Ảnh: Đức Nghĩa
Nơi thu giữ khí thiêng của trời đất
Cùng với Tháp Bảo thiên ở Kinh đô Thăng Long, tháp Tường Long (phường Ngọc Xuyên, Đồ Sơn) chiếm vị trí đầu bảng trong hàng nghìn công trình Phật giáo được xây dựng dưới thời Lý (1010-1225). Từ trên cao nhìn xuống, bán đảo Đồ Sơn giống như 9 con rồng đang vươn ra biển lớn. Tháp Tường Long tọa lạc trên đỉnh núi Long Sơn, ngọn núi cao nhất trong dãy Cửu Long của bán đảo Đồ Sơn. Với vị trí xây dựng trên ngọn núi cao 128m so với mực nước biển, tháp Tường Long cũng được coi là ngọn tháp cao nhất so với các công trình kiến trúc thời bấy giờ.
Tháp Tường Long linh thiêng và huyền bí. Theo sách "Đại Việt sử lược" vào năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây dựng tháp. Sau đó, Người nằm mộng thấy rồng vàng, nghĩ đây là điềm lành nên ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là "Thấy rồng vàng hiện lên" hay "rồng vàng hạ thế".
Pho tượng Phật A Di Đà tại tầng một của tòa tháp. Ảnh: Phương Thanh
Không chỉ là một danh lam, ngọn tháp quý còn là một địa điểm thể hiện thời kỳ vàng son của đạo Phật Việt Nam. Tương truyền, tháp là nơi "tụ sơn tích thủy" nên thu giữ được khí thiêng của trời đất. Ngọn tháp nhiều tầng như một chiếc cột phát sáng rực rỡ, chiếu rọi đạo pháp đến mọi người thời bấy giờ, đồng thời phản ánh sự hội nhập và khẳng định Phật giáo đã phát triển đến thời đỉnh cao.
Tháp cũng là trạm giao thông liên lạc từ xa gắn với an ninh quốc phòng của quốc gia. Người dân có thể sử dụng khói lửa làm phương tiện thông tin. Trạm giao liên này đồng thời được coi như một vọng gác vững chắc bảo vệ vùng trời, vùng biển ở ven biển của miền Đông Bắc Tổ quốc ta thời bấy giờ. Ngày nay, địa danh này đã được TP Hải Phòng công nhận là điểm du lịch vào năm 2021.
"Chạm" vào lịch sử
Bà Lưu Thị Thu Huyền, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ du lịch và quản lý di tích lịch sử quận Đồ Sơn cho biết: Trải qua hàng nghìn năm, tháp Tường Long chỉ tồn tại dưới dạng di tích khảo cổ học. Phế tích chỉ là nền móng tháp hình vuông, lòng tháp rỗng. Nhờ những nhát xẻng, cuốc của bộ đội, dân quân Đồ Sơn thời chống Mỹ cứu nước đào giao thông hào, xây dựng trận địa pháo phòng không đã chạm vào nền tháp cổ, làm bật tung lên những viên gạch quý lạ, trên một mặt có dòng chữ Hán in nổi trong một khung hình chữ nhật "Lý gia đệ tam đế, Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo". Dòng chữ ấy có nghĩa là thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, có niên hiệu Long Thụy Thái Bình.
Sau nhiều lần tu bổ, khai quật để tìm hiểu về kiến trúc thời Lý, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hình hài nền móng tháp, nhiều di vật quý còn sót lại. Năm 2017, sau 10 năm khởi công phục dựng, tòa tháp được khánh thành, cao 9 tầng. Bốn góc của chân tháp có độ nghiêng khoảng 190 độ. Vỏ tháp được xây dựng bằng gạch gốm, cách trang trí mang đặc trưng của thời Lý với các hoa văn, họa tiết như đóa sen, đóa cúc, hoa chanh... rất tinh xảo và mềm mại. Ngoài ra, tháp Chùa Tường Long còn có hệ thống tượng Phật, chuông đồng có giá trị lịch sử, đặc biệt là pho tượng Phật A Di Đà bằng đá ngọc thạch nguyên khối đặt trong tầng một của tòa tháp.
Lễ Khai bút đầu xuân tại chân tháp. Ảnh: Phương Thanh
Năm 2018, khu trưng bày hố khảo cổ tại chân tháp Tường Long được hoàn thành, trở thành một điểm nhấn thu hút du khách. Trên nền móng hố khảo cổ được chia thành hai khu, một khu trưng bày hiện vật được phục dựng để xây dựng tháp mới, khu còn lại để bài trí những hiện vật từ năm 1058 như: ngói lòng máng, ngói mũi hài, mảnh đất nung khắc hình rồng, tượng uyên ương, mảnh đầu rồng... Những hiện vật có hàng nghìn năm t.uổi là tài liệu đắt giá, là nơi giúp du khách cũng như nhân dân có thể "chạm" tới lịch sử xưa kia. Theo thống kê, trong năm 2023, có khoảng 20 vạn khách đã tới chiêm ngưỡng loạt hiện vật cổ hàng nghìn năm t.uổi tại ngọn tháp quý này.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tháp Tường Long ngày nay được xem như "kỳ quan mới" của quận Đồ Sơn và trở thành địa chỉ tiêu biểu của văn hóa Việt Nam thời Lý - Trần trên vùng đất Hải Phòng với các giá trị quý giá về kiến trúc, hội họa, lịch sử.
Mỗi năm khi Tết đến, Xuân về, Trung tâm Dịch vụ du lịch và quản lý di tích lịch sử quận Đồ Sơn đều tổ chức Lễ hội xuân cầu may tại tháp Tường Long. Du khách thập phương có cơ hội gửi gắm tâm tư, ước vọng của mình lên cây "điều ước" ngay dưới chân tháp, cầu chúc một năm mới bình an.
Khám phá Santorini ở... Morocco Thành cổ Kasbah of the Udayas, Morocco đã chinh phục tôi vào một buổi chiều đầy nắng và gió, khi ngồi nhâm nhi cốc trà bạc hà ở quán café bên sườn núi nhìn ra biển Salé... Chuyến du lịch bất đắc dĩ Là một travelholic (người nghiện du lịch), tôi có cơ hội đi thăm thú khá nhiều quốc gia, cũng bởi...