Công khai, minh bạch các thông tin về giá trong giai đoạn dịch bệnh
Công tác quản lý, điều hành giá trong năm 2020 sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ngay đầu năm tình hình dịch bệnh do virus corona đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế.
PGS,.TS Đinh Trọng Thịnh, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính
Ông đánh giá như thế nào về tác động của dịch bệnh do virus corona gây ra với kinh tế Việt Nam trong thời điểm hiện tại?
Có thể nói, dịch cúm này không chỉ tác động trên địa bàn Trung Quốc mà còn tác động tới nền kinh tế thế giới, làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc gặp khó khăn. Việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thế giới cũng gặp khó khăn do giá cả tăng lên do nguyên liệu đầu vào tăng. Cùng với đó, có thể xảy ra tình trạng các nhà đầu tư trên thế giới lo ngại dịch sẽ đầu tư vào vàng, tài sản khác thay vì sản xuất. Việc này khiến giao thương thế giới có thể thấp hơn nữa.
Theo thống kê mới nhất của Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính, CPI tháng 1/2020 tăng cao với 1,23%. Tuy điều này đã được dự báo trước và hiện vẫn trong các kịch bản điều hành nhưng nhiều ý kiến cho rằng sẽ gây khó khăn cho công tác điều hành giá trong quý I cũng như cả năm 2020. Ông nhận định như thế nào về điều này?
Để hoàn thành kế hoạch năm cuối cùng của giai đoạn 2016-2020, chuẩn bị bước vào giai đoạn mới 2021-2025, tạo tiền đề cho cả giai đoạn 2021-2030, dựa trên dự báo tình hình biến động của nền kinh tế thế giới, sự biến động của thị trường tài chính – tiền tệ thế giới, khả năng và các điều kiện của nền kinh tế Việt Nam, Quốc hội đã thông qua 12 chỉ tiêu cơ bản cho năm 2020.
Trong đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,8%, CPI dưới 4%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7%, tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33-34% GDP…
Video đang HOT
Để đạt được những chỉ tiêu tương đối cao và khá thách thức này, trước hết cần tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững.
Đặc biệt, cần theo dõi sát tình hình biến động của nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính – tiền tệ, chủ động, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao giá trị VNĐ.
Bên cạnh đó, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả. Theo dõi, quản lý và giám sát các biến động trên thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán… để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời, tránh để xảy ra các biến động bất thường tác động xấu đến nền kinh tế. Tích cực cơ cấu lại thu chi ngân sách nhà nước, đẩy mạnh cải cách chính sách thuế, tái cấu trúc và tăng cường hiệu quả chi tiêu công, tích cực giảm thiểu thâm hụt ngân sách nhà nước, giảm bền vững tỷ trọng nợ công và nợ nước ngoài trên GDP.
Cùng với đó, tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, đẩy nhanh việc xây dựng và điều chỉnh các định mức kinh tế – kỹ thuật để làm cơ sở xác định giá hàng hóa, dịch vụ cho các loại hình của dịch vụ y tế, giáo dục, xã hội theo đúng lịch trình, tính đúng, tính đủ chi phí thực hiện vào giá và lộ trình cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong giai đoạn hiện nay, khi dịch cúm do virus corona diễn biến khó lường, nhiều yếu tố đang đe doạ đến tình hình giá cả, hàng hoá. Để có thể bình ổn giá, ổn định tâm lý người dân cần có những biện pháp gì, thưa ông?
Trước hết, cần kiểm tra chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh việc điều chỉnh giá, tăng giá bất hợp lý. Với những mặt hàng có lộ trình tăng giá, xác định rõ mức độ, thời điểm thực hiện, tránh trùng các thời điểm có thể gây biến động lớn đến mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Đối với các hàng hóa được mua sắm bằng tiền từ nguồn ngân sách, hàng hóa dự trữ quốc gia, hàng hóa, dịch vụ phục vụ công ích cần được kiểm tra tính xác thực, tính đầy đủ và chính xác. Với những hàng hóa, dịch vụ công ích có thể đấu thầu, cần tổ chức đấu thầu mua sắm để đảm bảo tính cạnh tranh, tính hiệu quả và công bằng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, hơn hết, Nhà nước cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá, đặc biệt là đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh lạm phát kỳ vọng, tránh các tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả của một số mặt hàng và mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Xin cảm ơn ông!
Thùy Linh (thực hiện)
Theo haiquanonline.vn
Hướng tới minh bạch, công khai từ thanh toán không dùng tiền mặt
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, thanh toán không dùng tiền mặt trở thành xu hướng phát triển tất yếu của nhiều quốc gia. ây cũng là một trong những giải pháp về cơ chế, chính sách mà Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn ảng đã đề ra, để thúc đẩy minh bạch, công khai, góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Ảnh minh họa (Nguồn: tinnhanhchungkhoan.vn)
Xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt
Những năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trong nền kinh tế. Công tác chỉ đạo, điều hành cũng đã được cơ quan này triển khai thực hiện quyết liệt nhằm từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý về lĩnh vực thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và sử dụng các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới. Cụ thể, NHNN đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2545/Q-TTg phê duyệt ề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 241/Q-TTg phê duyệt ề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công; Chỉ thị số 10/CT-TTg về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Bên cạnh đó, NHNN ban hành kế hoạch xác định cụ thể các nhiệm vụ, lộ trình và trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong ngành ngân hàng.
Theo Vụ trưởng Thanh toán (NHNN) Phạm Tiến Dũng, năm 2018-2019 có thể được coi là năm đánh dấu sự thành công trong việc nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực thanh toán. Theo đó, Bộ tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa và tiêu chuẩn cơ sở "ặc tả kỹ thuật QR code" đã được Thống đốc NHNN ký quyết định ban hành, làm cơ sở để các tổ chức áp dụng thống nhất một chuẩn chung tại thị trường Việt Nam; qua đó tăng cường mức độ an toàn, bảo mật và gia tăng tiện ích, tạo thêm nhiều trải nghiệm cho khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán.
ến nay, ề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 đang bước vào những năm cuối với mục tiêu đạt tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng đặt ra mục tiêu đưa tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán xuống dưới mức 10% vào cuối năm 2020 và rút xuống còn 8% vào cuối năm 2025. ể hoàn thành các mục tiêu nêu trên, cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM, nhất là thanh toán điện tử, liên tục được hệ thống ngân hàng chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán ngày càng tăng của xã hội và thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Số liệu từ NHNN cho thấy, tám tháng đầu năm 2019, số lượng và giá trị giao dịch thanh toán nội địa của thẻ ngân hàng đã đạt hơn 158 triệu giao dịch với tổng giá trị đạt hơn 410 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 15,8% và 15,6% so với cùng kỳ năm 2018). Tổng giá trị giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trong tám tháng cũng đạt gần 105 triệu giao dịch, tương ứng với gần 61 triệu tỷ đồng (tăng 19,57% về số lượng và 26,66% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2018). Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ phục vụ thanh toán điện tử tiếp tục được chú trọng đầu tư, mở rộng. ến cuối tháng 7-2019, toàn thị trường có 18.841 máy ATM và 262.733 POS được lắp đặt với hơn 50 nghìn điểm chấp nhận thanh toán qua QR code.
Nhiều tính năng, tiện ích cũng đã được tích hợp vào thẻ ngân hàng để sử dụng thanh toán hàng hóa, dịch vụ,... ến cuối tháng 7-2019, số lượng giao dịch tài chính qua kênh in-tơ-nét đạt hơn 226 triệu giao dịch với giá trị giao dịch khoảng 10,9 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 51,8% và 18,3% so với cùng kỳ năm 2018). Số lượng giao dịch tài chính qua kênh điện thoại di động đạt gần 202 triệu giao dịch với giá trị giao dịch gần 2,1 triệu tỷ đồng, tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ba con số qua từng năm, tăng tương ứng 104,9% và 155,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý
Theo chuyên gia kinh tế - TS Nguyễn Trí Hiếu, TTKDTM có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. ặc biệt, TTKDTM còn giúp chống thất thu thuế cho Nhà nước từ những giao dịch chui hoặc không minh bạch; giảm rủi ro rửa tiền, hay nói cách khác là kiểm soát và phát hiện các thanh toán phạm pháp. Thông qua các ứng dụng QR code, ví điện tử hay thẻ tín dụng..., việc TTKDTM nhìn chung an toàn hơn bởi nó được bảo vệ qua hệ thống ngân hàng, các ứng dụng bảo mật vân tay hay nhận dạng khuôn mặt, mã OTP. "Nhưng nói thế không có nghĩa thanh toán phi tiền mặt an toàn tuyệt đối bởi nó cũng có các rủi ro như tình trạng tiền trong thẻ bỗng dưng bị đánh cắp hoặc thậm chí là rửa tiền, điều này cần được các công ty công nghệ tài chính và ngân hàng khắc
phục bằng cách tăng cường bảo mật" - TS Nguyễn Trí Hiếu lưu ý.
ồng tình với xu thế không thể đảo ngược của TTKDTM, Phó Thủ tướng Vương ình Huệ cũng cho biết: Thực tế không chỉ Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đang hướng tới sự minh bạch. Càng minh bạch thì càng chống được tham nhũng, kể cả tham nhũng vặt. Nhưng khi đánh giá về thực trạng TTKDTM tại Việt Nam, Phó Thủ tướng Vương ình Huệ cũng nhìn nhận, TTKDTM của nước ta hiện chỉ mới chiếm khoảng 14% trên tổng phương tiện thanh toán; trong khi đó, Hàn Quốc là quốc gia đạt TTKDTM cao nhất thế giới, với tỷ lệ chiếm đến 80% tổng giao dịch. Mục tiêu trong năm tới, tỷ lệ TTKDTM chiếm hơn 30% trên tổng phương tiện thanh toán; ba năm tới mục tiêu là sẽ chiếm tỷ lệ 50% trên tổng phương tiện thanh toán. Do đó, để đẩy mạnh TTKDTM, trước hết phải phổ cập định hướng tài chính toàn diện để toàn bộ người dân hiểu và sử dụng được dịch vụ này. Cùng với đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý để triển khai đề án TTKDTM của Chính phủ.
ồng quan điểm, TS Cấn Văn Lực - thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia cũng nêu đề xuất: ể phát triển TTKDTM, Chính phủ cần chỉ đạo hoàn thiện, cập nhật Chiến lược quốc gia về TTKDTM. Theo đó, năm 2016, Chính phủ đã ban hành ề án phát triển TTKDTM đến năm 2020. Tuy nhiên với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, đề án cần liên tục được cập nhật tạo cơ sở thúc đẩy hành lang pháp lý liên quan đến TTKDTM theo kịp yêu cầu thực tiễn. Trong đó, cách tiếp cận xây dựng các quy định pháp luật nên theo hướng khuyến khích thử nghiệm, sáng tạo nhiều hơn, song song với xu hướng chuẩn hóa nhằm tận dụng tốt thành quả công nghệ, nhưng vẫn kiểm soát được rủi ro và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp.
Cuối cùng, chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: thanh toán bằng tiền mặt trên toàn thế giới vẫn có khuynh hướng tăng bất chấp xu hướng mở rộng của thanh toán điện tử. Dẫn báo cáo World Cash Report 2018 của G4S, "trên phạm vi toàn cầu, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông so với GDP năm 2016 tăng lên hơn 9,6% so với mức 8,1% năm 2011", Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh nhấn mạnh: Số liệu cho thấy mặc dù thanh toán điện tử đang được đẩy mạnh, thanh toán di động đã trở thành xu hướng rõ nét ở nhiều nước nhưng tiền mặt vẫn còn được sử dụng nhiều. Vì vậy, Chính phủ các nước đều rất quan tâm đến việc đẩy mạnh TTKDTM, nhất là thanh toán điện tử. ối với Việt Nam, trước mắt, NHNN sẽ tích cực, chủ động thực thi một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm thúc đẩy TTKDTM. Theo đó, về khung pháp lý, NHNN hoàn thành dự thảo các quy định thay thế Nghị định số 101/2012/N-CP của Chính phủ về TTKDTM, trong đó đề ra một số giải pháp để mở rộng phạm vi và đối tượng sử dụng dịch vụ TTKDTM; tiếp tục triển khai có hiệu quả một số đề án, chiến lược về lĩnh vực thanh toán...
HỒNG ANH
Theo Nhandan.vn
App tín dụng đen đang "giết" những fintech chân chính Lợi dụng trục lợi khi chưa có hành lang pháp lý cho lĩnh vực cho vay ngang hàng (P2P), các app tín dụng đen với lãi suất "cắt cổ" đang "giết" dần những fintech chân chính. Hãy tìm hiểu kỹ thông tin các đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho vay online. Doanh nghiệp chân chính bị ảnh hưởng Trao đổi...