Còn nhiều thách thức cho mặt bằng lãi suất tại Việt Nam
Hiện nay vẫn có sự mất cân đối trong hệ thống tài chính Việt Nam khi khu vực tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản hệ thống và đảm nhận cả vai trò chính trong cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, chuyên gia tài chính – ngân hàng, TS. Cấn Văn Lực (ảnh), Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho rằng, đây chính là nguyên nhân chính khiến mặt bằng lãi suất khó giảm do các ngân hàng phải giữ chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra ở mức cao so với trung bình của khu vực.
Tháng đầu tiên của năm 2020 qua đi, ông nhận định như thế nào về tình hình lãi suất của các nước trên thế giới trong năm 2020?
Năm 2019, các nước trên thế giới đa số giảm lãi suất. Theo thống kê của trung tâm nghiên cứu BIDV, có 63 ngân hàng trung ương trên thế giới giảm lãi suất với tổng số 148 lần giảm, chẳng hạn Ngân hàng Trung ương Mỹ (FED) giảm ba lần trong năm. Tuy nhiên, năm nay, các nước cũng đã giảm đà cắt giảm lãi suất, nghĩa là có thể tiếp tục giảm nhưng tần suất không nhiều như năm trước. Nguyên nhân do lãi suất hiện nay rất thấp nên các nước thấy công cụ tiền tệ không còn nhiều dư địa để giảm, nên bắt buộc các nước phải dùng chính sách tài khóa.
Bên cạnh đó, một số nước quan ngại về lạm phát nên sẽ không muốn giảm lãi suất quá nhiều khiến lạm phát bùng lên, nhất là trong bối cảnh giá dầu và giá vàng vẫn còn nhiều biến động có thể khiến lạm phát tăng cao.
Tại Việt Nam, tình hình trên sẽ có tác động như thế nào tới mặt bằng lãi suất, thưa ông?
Theo tôi, trong năm nay, lãi suất đầu vào tại Việt Nam sẽ cơ bản theo hướng ổn định, nhưng ở một số thời điểm, lãi suất đầu vào có thể nhích lên. Nguyên nhân do nhu cầu huy động vốn cho nền kinh tế vẫn còn lớn, nhất là vốn trung, dài hạn. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng phải đáp ứng chuẩn Basel II; tiếp tục tuân thủ Thông tư 22/2019/TT- NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo hướng giảm dần dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm xuống. Theo đó, năm nay, các ngân hàng phải giảm tỷ lệ này xuống còn 37%, tỷ lệ này của năm trước là 40%. Điều này có thể không quá khó khăn vì tỷ lệ đó hiện đang là 38%.
Tuy nhiên, các ngân hàng phải để ý hơn trong việc huy động tăng vốn trung và dài hạn. Hơn nữa, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn phát triển tích cực nhưng không quá đột biến, dự tính năm nay tăng 7-10%, trong khi năm trước tăng khoảng 11%. Trong khi đó, nhu cầu về tín dụng còn khá lớn, vì NHNN năm nay vẫn định hướng tăng trưởng tín dụng trong khoảng 13-14%, tương tự 2019.
Đối với lãi suất đầu ra, trong bối cảnh các nước trên thế giới ít giảm lãi suất, Việt Nam cũng phải lưu ý các kênh đầu tư có nhiều biến chuyển như vàng, chứng khoán, bất động sản… Do đó, các ngân hàng cần phải cân nhắc, nếu lãi suất tiết kiệm ở mức thiếu hấp dẫn thì hệ thống ngân hàng khó thu hút được vốn phục vụ cho nền kinh tế. Vì thế, lãi suất đầu ra năm nay rất khó giảm, giữ mức độ như năm qua, hoặc có thể tương tự những tháng cuối năm tức là có giảm nhẹ đôi chút.
Lãi suất đầu ra khó giảm bởi lãi suất hiện nay không phải là điểm nghẽn về tín dụng của nền kinh tế. Hơn nữa, lãi suất thực sau khi đã trừ đi lạm phát đang ở mức trung bình so với khu vực. Cụ thể, trung bình 5 năm qua lãi suất thực ở mức 4,8-5%, vẫn ở mức trung bình cao. Do Việt Nam còn rủi ro, hơn nữa chi phí giao dịch toàn bộ nền kinh tế còn cao, thị trường vốn chưa phải là phát triển, chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, chênh lệch đầu vào – đầu ra tương đối thấp: 2,6-2,7% so với bình quân khu vực là 2,9-3%.
Video đang HOT
Lãi suất có thể giữ được sự ổn định trong năm 2020. Ảnh: ST.
Cùng với những nguyên nhân nêu trên, theo ông, đâu là những thách thức của nền kinh tế tới mặt bằng lãi suất tại Việt Nam?
Thách thức đối với nền kinh tế năm nay là lạm phát tăng hơn so với năm ngoái do giá thịt lợn tăng mạnh những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020, lạm phát tháng 1/2020 đã ở mức tương đối cao. Đồng thời, căng thẳng Mỹ – Iran cũng khiến giá dầu và vàng tăng những ngày đầu năm. Vì vậy, việc điều hành chính sách tiền tệ phải thật sự thận trọng mới đảm bảo được mục tiêu lạm phát trong năm nay. Do đó, với những thách thức này, nếu lãi suất đầu vào vẫn được giữ như thời điểm cuối năm 2019, nghĩa là giảm nhẹ một chút thì đã là thành công.
Xin cảm ơn ông!
Bà Dương Thị Thanh Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN): Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt
Thời gian qua, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp về lãi suất để ổn định và giảm lãi suất thị trường theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, trên cơ sở nền tảng kinh tế vĩ mô, tiền tệ, ngoại hối ổn định, lạm phát được kiểm soát, ngân hàng trung ương các nước liên tục cắt giảm lãi suất, vào tháng 9/2019, NHNN đã giảm 0,25 điểm phần trăm các mức lãi suất điều hành, qua đó tạo điều kiện hỗ trợ nền kinh tế, hỗ trợ thanh khoản và giảm chi phí vốn cho hệ thống tổ chức tín dụng. Tiếp đó, đến tháng 11/2019, NHNN điều chỉnh giảm 0,2-0,5 điểm phần trăm đối với trần lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên; giảm lãi suất chào mua OMOs (2 lần giảm với tổng mức giảm là 0,75 điểm phần trăm).
Phản ứng tích cực với chính sách của NHNN, các tổ chức tín dụng đã chủ động điều chỉnh giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay góp phần hỗ trợ sản xuất kinh doanh; trong đó nhiều tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất sâu hơn mức trần quy định của NHNN. Do đó, xét về tổng thể, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã, đang và tiếp tục thể hiện sự linh hoạt hỗ trợ nền kinh tế, tính đến các tác động từ bên ngoài nhưng vẫn kiên định với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối trong trung, dài hạn. NHNN vẫn tiếp tục điều hành cẩn trọng các công cụ chính sách tiền tệ để ổn định tiền tệ, ngoại hối, kiểm soát lạm phát, tiếp tục thực hiện các quy định về đảm bảo an toàn đối với các tổ chức tín dụng, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, Học viện Tài chính: Theo dõi sát biến động thị trường
Để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, Việt Nam phải ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Đặc biệt, Chính phủ và các cơ quan, bộ, ngành phải theo dõi sát tình hình biến động của nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính tiền tệ. Từ đó phải có các giải pháp chủ động, quản lý điều hành tỷ giá linh hoạt, lãi suất hợp lý để đưa dòng vốn ra nền kinh tế.
Ông Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính, Học viện Tài chính: Lãi suất duy trì ổn định
Năm 2020, mặt bằng lãi suất nhiều khả năng sẽ duy trì được sự ổn định. Tuy nhiên, lãi suất cho vay phục vụ nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn huy động từ tổ chức, cá nhân trong thị trường 1 (thị trường giữa các ngân hàng thương mại với các tổ chức kinh tế và cá nhân). Vì vậy, nếu người dân vẫn chủ yếu gửi tiền kỳ hạn ngắn thì lãi suất cho vay, nhất là vay dài hạn rất khó giảm.
Ông Hoàng Việt Cường, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Nam Á ( NamABank): Nỗ lực đựa nguồn vốn giá rẻ vào thị trường
Chính phủ đã có chủ trương giảm lãi suất cho vay. Các ngân hàng trung ương nhiều nước đã không ngừng nới lỏng chính sách tiền tệ, nên nếu muốn cạnh tranh được, các ngân hàng nhỏ cũng đang đối diện với thách thức. Do đó, NamABank cũng sẽ nỗ lực để đưa thêm nguồn vốn giá rẻ vào thị trường.
Hương Dịu
Theo haiquanonline.vn
Giữ ổn định mặt bằng lãi suất
Năm 2020, các chuyên gia dự báo kinh tế còn nhiều diễn biến phức tạp, sẽ ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất của các ngân hàng tại Việt Nam. Do đó, giữ ổn định lãi suất, hạ lãi suất là những mục tiêu cần nỗ lực rất lớn không chỉ của riêng hệ thống ngân hàng.
Ngành ngân hàng luôn nỗ lực để giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế. Ảnh: ST.
Nhiều yếu tố chi phối
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp tục là yếu tố chi phối lớn nhất tới thị trường toàn cầu. Sự khó lường trong mối quan hệ thương mại của hai nền kinh tế hàng đầu thế giới mang lại những ảnh hưởng tiêu cực lớn hơn cả những tác động của các đòn thuế quan. Việc Mỹ và Trung Quốc thống nhất nội dung thỏa thuận thương mại một phần ngay trước thời hạn tăng thuế 15/12/2019 đã giúp cả thị trường như trút được "gánh nặng". Bên cạnh đó, làn sóng nới lỏng tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương lan rộng cũng góp phần đẩy lùi nỗi lo kinh tế giảm tốc, tiến trình Brexit tại Anh đã có tín hiệu tích cực... Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn còn nhiều bất định, nhất là những căng thẳng địa chính trị tại nhiều nước. Thêm vào đó, những ngày gần đây, cả thế giới đang đứng trước sự bùng phát của dịch bệnh viêm phổi cấp do virus corona bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc. Vì thế, những vấn đề này sẽ là những rủi ro với tăng trưởng và thị trường tài chính trong năm 2020.
Tại Việt Nam, chính sách tiền tệ vẫn đang đi đúng hướng với nhiều dấu ấn trong công tác điều hành. Khác với xu hướng tăng khi bước vào mùa cao điểm, tỷ giá và lãi suất trong tháng cuối năm 2019 khá bình lặng. Các chuyên gia của Công ty Chứng khoán SSI cho rằng, hòa cùng với xu hướng chung trên toàn cầu, chính sách tiền tệ trong năm 2019 của Việt Nam đã dịch chuyển theo hướng nới lỏng rõ nét hơn. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã giảm đồng loạt các lãi suất điều hành, trong đó hai lần giảm lãi suất trên thị trường mở (OMO) và ba lần giảm lãi suất tín phiếu, mức giảm tổng cộng đều là 0,75%. Vùng dao động của lãi suất trên liên ngân hàng đã được kéo giảm đáng kể, về 2,25-4%/năm. NHNN cũng hạ trần lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc giảm lãi suất của các ngân hàng vẫn chưa thực sự lan rộng, đặc biệt là mức độ giảm lãi suất tại các kỳ hạn dài không cao, do nhiều ngân hàng thương mại nhỏ vẫn đang có nhu cầu huy động vốn cao trước các yêu cầu gia tăng tính an toàn trong hoạt động của NHNN. Hơn nữa, NHNN vẫn sử dụng công cụ điều hành chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng giao cho các ngân hàng thương mại từ đầu năm. Chính vì thế, trong năm 2019, mặt bằng lãi suất huy động tăng lên trong 3 quý đầu năm, đặc biệt là tại các kỳ hạn dài với mức tăng từ 0,7-1,2%, nhưng sau đó có giảm nhẹ trở lại tại một số ngân hàng thương mại vào thời điểm cuối năm nhờ các động thái nới lỏng của NHNN, nhưng mức giảm là không nhiều.
Với những diễn biến trên, NHNN cho biết, hiện lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,2-0,8%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3-5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3-7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,6-7,5%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3-6%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 4,5-6%/năm.
Diễn biến lãi suất huy động kỳ hạn 13 tháng từ tháng 1/2018 và dự báo đến tháng 6/2020. Nguồn: SSI.
Sẽ có xu hướng giảm nhẹ
Ban Kinh tế vĩ mô và dự báo, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) dự báo năm 2020, tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 6,5-6,8%, nhưng lạm phát sẽ duy trì ở mức thấp khoảng 3-3,8%. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro, nhất là những tác động từ kinh tế thế giới do Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, phụ thuộc khá mạnh vào khu vực bên ngoài. Vì thế, các chuyên gia cho rằng, giữ được ổn định mặt bằng lãi suất sẽ là nỗ lực rất lớn.
Theo báo cáo tình hình kinh tế vĩ mô của Công ty Chứng khoán VCBS, trong năm 2020, yếu tố tạo áp lực lên lãi suất huy động liên quan đến thực trạng nội tại của hệ thống ngân hàng hiện nay đi cùng với định hướng của NHNN trong việc yêu cầu nâng cao năng lực quản trị rủi ro, các chỉ tiêu an toàn và hướng tới đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống ngân hàng. Điều này đồng nghĩa áp lực về nguồn vốn đối với các ngân hàng sẽ tăng lên đáng kể với các hiệu ứng có thể kể đến như tăng mặt bằng lãi suất huy động.
Ở chiều ngược lại, VCBS cho rằng, mục tiêu ổn định mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý để hỗ trợ tăng trưởng có thể đạt được với các yếu tố hỗ trợ chính như: Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đang nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất; dòng tiền nước ngoài vào Việt Nam được duy trì tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN chủ động điều tiết cung tiền và thanh khoản một cách hợp lý khi cần thiết; tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định với mức biến động hợp lý của VND so với các quốc gia trong khu vực; NHNN có thể sử dụng một số biện pháp mang tính hành chính trong trường hợp cần thiết để hạn chế áp lực cạnh tranh về huy động tiền gửi giữa các ngân hàng.
"Lãi suất huy động được dự báo chịu áp lực tăng nhng mức tăng kỳ vọng không lớn trong khoảng từ 0-50 điểm cơ bản (0-0,5%), tập trung tại các kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên. Trong khi đó, lãi suất cho vay kỳ vọng sẽ không có nhiều biến động và duy trì tương đường như mặt bằng hiện tại", VCBS nhận định.
Trong khi đó, các chuyên gia của SSI lại cho rằng, lãi suất huy động có khả năng tiếp tục hạ dựa trên hai nền tảng là thanh khoản hệ thống ngân hàng và định hướng từ Chính phủ. Giá cả hàng hóa và thị trường ngoại hối là các biến số có thể làm nhanh hoặc chậm việc hạ lãi suất. Hơn nữa, việc giảm lãi suất ở kỳ hạn dài sẽ vẫn có khoảng cách giữa các nhóm ngân hàng vì định hướng giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn sẽ còn gần 3 năm nữa mới kết thúc. Đồng quan điểm, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, mặt bằng lãi suất năm 2020 nhiều khả năng sẽ giảm nhẹ khi áp lực huy động của các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn và đáp ứng Basel II sẽ giảm dần. Bên cạnh đó áp lực lạm phát không lớn, nhu cầu tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại và huy động trái phiếu chính phủ không cao sẽ hỗ trợ cho quá trình hạ lãi suất.
Tuy vậy, Chuyên gia tài chính - ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, nếu NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách giảm lãi suất để đẩy một lượng cung ứng tiền tệ vào lưu thông thì tất yếu sẽ dẫn tới tăng trưởng tín dụng ở mức cao, vì người dân và DN sẽ đi vay nhiều hơn. Nhưng tác động lớn nhất của việc này là sự ảnh hưởng tới lạm phát, trong khi Chính phủ luôn muốn giữ lạm phát ở dưới mức 4%. Đầu tháng 1 năm nay, nhiều mặt hàng đã tăng giá nên phải dùng công cụ tiền tệ để kiềm chế lạm phát, lãi suất là một trong số đó. Vì thế, cơ quan điều hành vừa phải giữ chính sách tiền tệ khôn khéo vừa phải đáp ứng việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu lạm phát được kiểm soát tốt thì lãi suất có thể giảm xuống, nhất là khi lãi suất thực (đã trừ lạm phát) vẫn ở mức tương đối trong khu vực nên dư địa để NHNN có thể tiếp tục cắt giảm lãi suất còn khá nhiều.
Hương Dịu
Theo haiquanonline.com.vn
Chính sách tiền tệ: Nặng gánh hai vai Nhiệm vụ đặt ra đối với chính sách tiền tệ năm 2020 vô cùng khó khăn khi vừa phải kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô; đồng thời hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt bằng lãi suất tại Việt Nam vẫn còn cao hơn nhiều so với nhiều quốc gia trong khu vực Vẫn còn...